Lịch sử phát triển

13/04/2018 14:59 Số lượt xem: 12157

 

CHƯƠNG I

HOẠT ĐỘNG CỦA THANH TRA VIỆT NAM PHỤC VỤ CÔNG CUỘC

KHÁNG CHIẾN, KIẾN QUỐC (1945 - 1954)

 

I. BAN THANH TRA ĐẶC BIỆT RA ĐỜI ĐÁP ỨNG YÊU CẦU XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG (1945 - 1946)

Dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo, Tháng Tám năm 1945, toàn thể nhân dân Việt Nam đã vùng lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời. Thắng lợi này đã đưa Việt Nam bước vào một kỷ nguyên mới: kỷ nguyên độc lập, tự do. Nhân dân Việt Nam trở thành người làm chủ vận mệnh của mình.

Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà vừa mới ra đời còn non trẻ đã phải đương đầu với muôn vàn khó khăn, thử thách. Cùng với những khó khăn về kinh tế - xã hội: “Giặc đói, giặc dốt”, còn phải đối phó cùng một lúc với nhiều kẻ thù ở cả trong và ngoài nước.

Hơn 20 vạn quân Tưởng Giới Thạch kéo vào miền Bắc Việt Nam, dưới danh nghĩa quân Đồng minh vào giải giáp quân đội phát xít Nhật, cùng bọn tay sai phản động âm mưu tiêu diệt chính quyền cách mạng non trẻ để thay thế bằng một chính quyền tay sai thân Tưởng.

Ở miền Nam, dưới danh nghĩa Đồng minh, quân đội Anh đã che chở và dọn đường cho thực dân Pháp quay trở lại xâm lược Việt Nam một lần nữa. Ngay sau ngày Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công thực dân Pháp liên tiếp gây ra các vụ khiêu khích. Ở Hà Nội, Hải Phòng và một số tỉnh khác. Mặc khác, hàng nghìn binh lính và sỹ quan quân đội phát xít Nhật còn đầy đủ vũ khí đang có mặt khắp nơi trên đất nước ta.

Tất cả bọn đế quốc, cùng các đảng phái phản động, tuy có những mưu đồ riêng, nhưng đều có chung một mục tiêu là lật đổ và tiêu diệt chính quyền non trẻ của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.

Có thể nói, chưa bao giờ vận mệnh của cách mạng Việt Nam, của dân tộc Việt Nam phải đứng trước những thử thách vô cùng nghiêm trọng “ngàn cân treo sợi tóc” như  những ngày sau Cách mạng Tháng Tám.

Bên cạnh những khó khăn, chúng ta cũng có nhiều thuận lợi, trong đó, thuận lợi to lớn nhất, căn bản nhất là sức mạnh hùng hậu của khối đoàn kết toàn dân đang hăng say lao vào công cuộc cách mạng dưới sự lãnh đạo sáng suốt và tài tình của Đảng ta, của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính mến.

Nhiệm vụ quan trọng nhất đặt ra cho Đảng và nhân dân ta lúc này là giữ vững chính quyền nhân dân trước sự tấn công điên cuồng của những kẻ thù lớn mạnh, độc ác và nguy hiểm. Muốn chiến thắng kẻ thù và vượt qua mọi khó khăn, Đảng phải huy động được tất cả sức mạnh của toàn bộ đất nước, của toàn thể dân tộc lên trận tuyến đấu tranh, không bỏ sót một khả năng, một lực lượng nào. Đoàn kết toàn dân, an dân, phát huy sức mạnh của mọi nguồn lực dân tộc là vấn đề mấu chốt, có tính chất sống còn của Tổ quốc Việt Nam. 

Trong hàng loạt biện pháp nhằm tăng cường khối đoàn kết toàn dân, xây dựng thực lực, đối phó với mọi kẻ thù, Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức chú trọng đến việc xây dựng kỷ cương, phép nước; xây dựng và củng cố hệ thống chính quyền dân chủ nhân dân, “của dân, do dân và vì dân”.

Công cuộc xây dựng chính quyền mới, chính quyền dân chủ nhân dân, là điều mới mẻ. Vì vậy, Đảng ta một mặt sử dụng những người đã từng tham gia bộ máy chính quyền cũ nhưng có tinh thần yêu nước và hiểu biết công việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội; mặt khác (và là chủ yếu) là huy động sức lực và trí tuệ, tinh thần của cán bộ và quần chúng cách mạng, với phương châm vừa làm, vừa học hỏi để làm tốt hơn.

Một trong những khó khăn trong xây dựng chính quyền mới, thể chế mới là chúng ta chưa có một hệ thống luật pháp. Tư tưởng xây dựng chính quyền nhân dân chưa được xây dựng thành một hệ thống lý luận ở nước ta và nhất là chưa được luật pháp hoá, thể chế hoá. Trong khi đó chúng ta phải xoá bỏ hệ thống luật pháp của chính quyền thực dân, phong kiến được xây dựng để thống trị nhân dân ta, phục vụ cho lợi ích riêng của chúng.

Do chưa có một hệ thống luật pháp, quy chế, quy định, cùng với sự hiểu biết hạn chế trong việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội, nhiều người trong bộ máy chính quyền cách mạng đã tỏ ra lúng túng, thậm chí nhiều trường hợp do thiếu kinh nghiệm đã xử lý sai, gây bức xúc trong quần chúng nhân dân.

Ngay trong những ngày đầu xây dựng chính quyền nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã nhận được khá nhiều ý kiến do các tầng lớp nhân dân phản ánh bằng thư từ, đơn kiện hoặc gặp gỡ trực tiếp. Nhiều nhân sỹ, trí thức yêu nước phát hiện một số việc làm sai trái của các nhân viên trong bộ máy chính quyền các cấp, nhất là ở các địa phương, đã viết thư lên Chủ tịch Hồ Chí Minh bày tỏ nguyện vọng cần sớm chấm dứt các hiện tượng, việc làm sai trái đó.

Hơn lúc nào hết, vấn đề quan trọng hàng đầu lúc này là phải chăm lo khối đoàn kết toàn dân nhằm động viên tất cả mọi lực lượng dân tộc vào công cuộc xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng. Để làm được điều đó, nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là phải “an dân”, giữ vững kỷ cương, phép nước, làm cho trên dưới một lòng, mọi người dân, mọi tầng lớp đều đồng sức, đồng lòng tin tưởng và Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh, hăng hái góp sức mình vào công cuộc kháng chiến, kiến quốc.

Ngày 4/10/1945, lần đầu tiên cuộc họp Hội đồng Chính phủ đã đưa ra vấn đế phải thành lập tổ chức Thanh tra. Trong lúc chờ đợi có một sắc lệnh thành lập Ban Thanh tra, Chính phủ giao cho cấp trên quyền xét xử cấp dưới và đề nghị Bộ Nội vụ lập một Uỷ ban Thanh tra hành chính để đi điều tra công việc hành chính ở các địa phương. Tiếp đó cuộc họp của Hội đồng Chính phủ ngày 13/11/1945 đã nhất trí với đề nghị của ông Phạm Ngọc Thạch về việc tổ chức Ban Thanh tra của Chính phủ để phái đi các tỉnh. Ban Thanh tra này có quyền đưa những người lầm lỗi ra xử trước Toà án đặc biệt. Sau khi thảo luận kỹ các nội dung, Hội đồng Chính phủ quyết định giao cho ông Phạm Ngọc Thạch dự thảo một đề án về tổ chức và hoạt động của Ban Thanh tra. Đồng thời, Hội đồng Chính phủ quyết định thành lập ở mỗi Bộ một Ban Thanh tra đặc biệt dưới quyền viên Thanh tra hành chính do Bộ Nội vụ cử. Các Ban Thanh tra này có quyền phạt những người làm sai và khen thưởng những người làm tốt.

Ngay hôm sau, ngày 14/11/1945, Hội đồng Chính phủ đã họp để thảo luận và quyết định ban hành Nghị định thành lập một Ban Thanh tra Đặc biệt của Chính phủ.

Sau một thời gian chuẩn bị các thủ tục, văn bản và nhân sự, ngày 23/11/1945, nhân danh Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh thành lập Ban Thanh tra Đặc biệt.

Bản Sắc lệnh gồm tám điều:

“Điều thứ nhất - Chính phủ sẽ lập ngay một Ban Thanh tra Đặc biệt, có uỷ nhiệm là đi giám sát tất cả các công việc và các nhân viên của Uỷ ban nhân dân và các cơ quan của Chính phủ.

Điều thứ hai - Ban Thanh tra Đặc biệt có toàn quyền:

- Nhận các đơn khiếu nại của nhân dân.

- Điều tra, hội chứng, xem xét các tài liệu giấy tờ của các Uỷ ban nhân dân hoặc các cơ quan của Chính phủ cần thiết cho công việc giám sát.

- Đình chức, bắt giam bất cứ nhân viên nào trong Uỷ ban nhân dân hay Chính phủ đã phạm lỗi trước khi mang ra Hội đồng Chính phủ hay Toà án đặc biệt xét xử.

- Tịch biên hoặc niêm phong những tang vật và dùng mọi cách điều tra để lập một hồ sơ mang một phạm nhân ra Toà án đặc biệt.

Ban Thanh tra có thể truy tố tất cả các việc đã xảy ra trước ngày ban bố Sắc lệnh này.

Ban Thanh tra có quyền đề nghị lên Chính phủ những điều cần sửa đổi trong các cơ quan.

Điều thứ ba - Sẽ thiết lập ngay tại Hà Nội một Toà án đặc biệt để xử những nhân viên của các Uỷ ban nhân dân hay các cơ quan của Chính phủ do Ban Thanh tra truy tố.

Điều thứ tư - Toà án đặc biệt có ông Chủ tịch Chính phủ lâm thời làm Chánh án và hai ông Bộ trưởng Bộ Nội vụ và Bộ trưởng Bộ Tư pháp làm Hội thẩm.

Bộ trưởng Bộ Tư pháp sẽ là Hội thẩm thuyết trình.

Một uỷ viên trong Ban Thanh tra đứng buộc tội.

Viên Lục sự sẽ do ông Chưởng lý Toà thượng thẩm Hà Nội chỉ định.

Điều thứ năm - Bị cáo có thể tự bào chữa lấy hay nhờ Luật sư bênh vực, ông Hội thẩm thuyết trình có thể cử một Luật sư bào chữa không cho bị cáo.

Điều thứ sáu - Toà án đặc biệt có toàn quyền định án, có thể tuyên án tử hình.

Những án tuyên lên sẽ thi hành trong 48 giờ. 

Điều thứ bảy - Ban Thanh tra và Toà án đặc biệt do Sắc lệnh này lập ra chỉ có tính cách tạm thời.

Điều thứ tám - Các ông Bộ trưởng Bộ Nội vụ và Bộ Tư pháp phụ trách thi hành Sắc lệnh này”.

Ngày 31/12/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 80-SL cử các ông Bùi Bằng Đoàn và Cù Huy Cận vào Ban Thanh tra Đặc biệt. Đến đây, Ban Thanh tra Đặc biệt đã được hình thành về mặt tổ chức với những trọng trách to lớn.

Sắc lệnh nói trên là văn kiện mang tính pháp lý về công tác Thanh tra cũng như về công việc xét xử của toà án. Bản Sắc lệnh đó là cơ sở pháp lý cho hoạt động của Ban Thanh tra, đồng thời cũng đặt viên gạch đầu tiên cho việc xây dựng hệ thống luật pháp về Thanh tra.

 Ban Thanh tra Đặc biệt ra đời trong một hoàn cảnh lịch sử đặc biệt của cách mạng Việt Nam, được Chính phủ trao cho những quyền hạn rất lớn và nặng nề, không chỉ là một công cụ thường xuyên của chính quyền dân chủ nhân dân mà còn có nhiệm vụ quan trọng góp phần làm yên lòng dân đặng tập hợp, đoàn kết toàn dân, tạo nên sức mạnh của toàn thể dân tộc trong sự nghiệp bảo vệ chính quyền và giải phóng Tổ quốc.

Do yêu cầu cấp thiết trước mắt, nhiệm vụ của Ban Thanh tra Đặc biệt là thường xuyên nghiên cứu và giải quyết các đơn, thư khiếu nại và phản ánh của các tầng lớp nhân dân từ khắp các địa phương gửi lên Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Ngay sau khi được cử vào Ban Thanh tra Đặc biệt, cụ Bùi Bằng Đoàn và ông Cù Huy Cận vinh dự được Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp gặp gỡ và giao trọng trách. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn ông Cù Huy Cận: “Ban Thanh tra không cần nhiều người, lúc này hai người là đủ: một vị cao tuổi và là vị quan có tiếng liêm khiết của triều đình cũ, là cụ Bùi; một người thanh niên hăng hái, mà trong nước cũng biết tiếng là chú. Người già, người trẻ dựa vào nhau mà làm việc, nhất định việc thanh tra sẽ làm tốt và cần làm ngay”[1] .

Cụ Bùi Bằng Đoàn được Chủ tịch Hồ Chí Minh cử giữ chức Trưởng Ban Thanh tra Đặc biệt. Chủ tịch Hồ Chí Minh còn trực tiếp viết giấy giới thiệu cụ Bùi Bằng Đoàn và ông Cù Huy Cận với các địa phương để tạo thêm uy tín và điều kiện hoạt động thuận lợi cho Ban Thanh tra Đặc biệt. Giấy giới thiệu được viết bằng hai bản, một bản bằng chữ Quốc ngữ và một bản bằng chữ Hán. Cả hai bản đều được đóng dấu Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Chủ tịch Hồ Chí Minh ký tên.

Sự quan tâm của Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với uy tín của cụ Bùi Bằng Đoàn đã tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của Ban Thanh tra Đặc biệt. Ngay sau khi được giao nhiệm vụ. Việc đầu tiên của Ban Thanh tra Đặc biệt là nghiên cứu kỹ đơn, thư của các tầng lớp nhân dân và các nhân sỹ, trí thức từ khắp nơi gửi về. Nhận thấy cần phải trực tiếp đi điều tra tình hình tại chỗ để kịp thời giải quyết ngay yêu cầu của quần chúng, cả hai vị trong Ban Thanh tra Đặc biệt đã đi về một số địa phương.

Địa phương đầu tiên mà Ban Thanh tra Đặc biệt đến là tỉnh Hà Nam đầu tháng 1-1946. Sau khi nhận và nghiên cứu kỹ đơn, thư khiếu nại của nhiều người bị bắt và đang bị giam giữ ở tỉnh. Ban Thanh tra đã trực tiếp nghe họ trình bày và đề đạt nguyện vọng. Nhận thấy có nhiều trường hợp bị bắt và bị giam giữ không có lý do thoả đáng, Ban đã trao đổi ý kiến với Tỉnh uỷ Hà Nam và quyết định trả lại tự do cho hơn một phần ba trong số hơn 60 người đang bị giam giữ. Đây là vụ thanh tra đầu tiên của Ban Thanh tra Đặc biệt. Với cách giải quyết hợp lý, hợp tình, cuộc thanh tra đầu tiên ấy đã gây được cảm tình mạnh mẽ trong quần chúng nhân dân, làm cho nhân dân hiểu rõ và tin tưởng hơn vào Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Tiếp đó, Ban Thanh tra Đặc biệt đã thanh tra vụ lạm dụng quyền lực để ức hiếp quần chúng. Giữa tháng 2/1946, Ban Thanh tra Đặc biệt về tỉnh Thanh Hoá để giải quyết vụ kêu oan của những người bị bắt ở tỉnh này. Sau khi điều tra rõ tình hình, Ban Thanh tra Đặc biệt quyết định trả lại tự do cho hơn 10 người bị bắt oan không có chứng cứ phạm tội, hoặc có phạm lỗi nhưng chưa đến mức phải bắt giam.

Cuối tháng 5/1946, Ban Thanh tra Đặc biệt nhận được nhiều đơn, thư của cán bộ, nhân viên và một số quần chúng nhân dân ở tỉnh Y, phản ánh về việc cán bộ lãnh đạo tỉnh này có những hành động cửa quyền, lợi dụng quyền lực để ức hiếp quần chúng, trù dập những người dưới quyền không nghe theo mệnh lệnh sai trái của họ. Ban Thanh tra Đặc biệt đã về điều tra trực tiếp tại chỗ và chỉ rõ những hành động sai trái của một số cán bộ lãnh đạo trong bộ máy chính quyền của tỉnh Y. Nhờ giải quyết kịp thời, phân rõ đúng sai, những hành động cửa quyền, ức hiếp quần chúng ở tỉnh Y đã được giảm bớt và không gây ra những hậu quả đáng tiếc.

Trong những tháng cuối năm 1946, Ban Thanh tra Đặc biệt tiếp tục giải quyết một số vụ việc theo đơn, thư khiếu nại, phản ánh của quần chúng nhân dân. Vì không xảy ra những vụ vi phạm nghiêm trọng và không có điều kiện đi điều tra tại chỗ, Ban Thanh tra Đặc biệt đã nghiên cứu kỹ đơn, thư phản ánh của quần chúng và phối hợp với Thanh tra Bộ Nội vụ giải quyết các yêu cầu của quần chúng.

Phần lớn các vụ việc được giải quyết với các hình thức là phê bình, cảnh cáo và khuyến nghị các nhân viên có hành động sai phạm. Lúc này, hoạt động của Ban Thanh tra Đặc biệt chủ yếu diễn ra tại địa bàn các tỉnh Bắc bộ và Bắc Trung bộ.

Trong điều kiện thù trong, giặc ngoài bao vây bốn phía, lăm le phá hoại nền độc lập dân tộc, chính quyền cách mạng có nguy cơ bị tiêu diệt, việc làm của Chính phủ thông qua các hoạt động thanh tra, trước hết là của Ban Thanh tra Đặc biệt đã thực sự gây được niềm tin trong các tầng lớp nhân dân, động viên toàn dân tập hợp trong trận tuyến đấu tranh giữ vững và xây dựng chính quyền cách mạng, chuẩn bị thực lực cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

Những quan điểm đầu tiên của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác thanh tra và những hoạt động ban đầu của Ban Thanh tra Đặc biệt đã đặt nền móng cho việc xây dựng hệ thống tư tưởng, tổ chức và hoạt động thanh tra về sau.

II. HOẠT ĐỘNG THANH TRA TRONG NHỮNG NĂM ĐẦU KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (1946 - 1949)  

Ngày 19/12/1946, trước hành động xâm lược trắng trợn của quân đội Pháp, Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động toàn dân đứng lên tiến hành cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp xâm lược.

Trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh hô hào:

“Hỡi đồng bào!

Chúng ta phải đứng lên!

Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”[2] .

Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định, cuộc kháng chiến của ta sẽ là cuộc kháng chiến lâu dài, toàn dân, toàn diện, vừa kháng chiến, vừa kiến quốc… Điều đó đòi hỏi công tác thanh tra phải được đẩy mạnh, mở rộng phạm vi hoạt động, phải chuyển hướng về tổ chức và hoạt động thanh tra cho phù hợp với điều kiện kháng chiến.

Để bảo đảm công tác tổ chức, chỉ đạo kháng chiến, bộ máy chính quyền các cấp được thiết lập và kiện toàn cho phù hợp với tình hình mới. Trong năm 1947, Chính phủ đã ban hành nhiều sắc lệnh về kiện toàn và củng cố chính quyền các cấp. Trong quá trình củng cố,  kiện toàn bộ máy chính quyền, Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ, nhân viên nhà nước.

Tháng 10/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết cuốn Sửa đổi lối làm việc làm tài liệu tu dưỡng tư tưởng, đạo đức và tác phong cho cán bộ, đảng viên. Trong tác phẩm này, Người đã chỉ rõ vai trò quan trọng của công tác thanh tra: “Người lãnh đạo xem xét việc thực hiện chủ trương, chỉ thị, nghị quyết chỉ “Trông từ trên xuống”. Vì vậy sự trông thấy là có hạn. Trái lại, dân chúng trông thấy công việc, sự thay đổi của mọi người; mặt khác, họ trông thấy từ dưới lên. Nên sự trông thấy cũng có hạn.  Vì vậy, muốn giải quyết vấn đề cho đúng, ắt phải họp kinh nghiệm cả hai bên lại.

Muốn  như thế, người lãnh đạo ắt phải có mối liên hệ chặt chẽ giữa mình với các tầng lớp người, với dân chúng”[3].

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, muốn có mối liên hệ tốt giữa lãnh đạo với dân chúng thì cần phải tổ chức kiểm tra, kiểm soát.

Như vậy, thanh tra, kiểm tra, kiểm soát là một công việc thường xuyên của chính quyền dân chủ nhân dân. Trước hết nó góp phần tạo ra mối liên hệ giữa trên và dưới, giữa lãnh đạo và quần chúng nhằm đảm bảo tính chất chính quyền của dân, do dân và vì dân.

Cùng với vai trò trên, công tác thanh tra còn bảo đảm ngăn chặn mọi tệ nạn thường xuyên có khả năng xảy ra như quan liêu, lãng phí, tham ô. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Muốn chống bệnh quan liêu, bệnh bàn giấy; muốn biết các nghị quyết có được thi hành không, thi hành có đúng không; muốn biết ai ra sức làm, ai làm qua chuyện, chỉ có một cách là khéo kiểm soát”[4].

Như vậy, ngay từ những ngày đầu xây dựng chính quyền cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra những luận điểm quan trọng về yêu cầu, mục đích và nhiệm vụ của công tác thanh tra. Đồng thời, Người cũng nêu rõ quan điểm về tiêu chuẩn cán bộ thanh tra. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “Người đi kiểm soát phải là những người rất có uy tín”[5] .

Đó là những tư tưởng đầu tiên của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác thanh tra. Tư tưởng đó soi sáng mọi hoạt động của Ban Thanh tra Đặc biệt, đồng thời đặt cơ sở, nền móng cho việc xây dựng hệ thống tư tưởng, tổ chức và hoạt động của ngành Thanh tra sau này.

Thực hiện sự chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về mặt tổ chức, Đảng và Chính phủ đã tăng cường lực lượng của Ban Thanh tra Đặc biệt. Ngày 4/8/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh cử cụ Tôn Đức Thắng, nguyên Bộ trưởng Bộ Nội vụ sang chức Thanh tra Đặc biệt toàn quốc.

Bên cạnh Ban Thanh tra Đặc biệt, Đảng và Chính phủ thành lập các Đặc uỷ Đoàn và các Đoàn phái viên hoạt động có tính cách như một cơ quan Thanh tra của Chính phủ. 

Theo quy định của Hội đồng Chính phủ, nhiệm vụ chủ yếu của các Đặc phái viên Chính phủ là:         

- Kiểm tra các công việc của Uỷ ban Hành chính và các cơ quan hành chính địa phương;

- Chỉnh đốn các cơ quan hành chính địa phương cho được thống nhất;

- Giải trừ với Uỷ ban Hành chính địa phương các vấn đề thường nhật, trừ những việc có tính chất quan trọng phải báo cáo với Chính phủ;

- Liên lạc giữa Chính phủ Trung ương và các Uỷ ban Hành chính địa phương;

- Thu nạp các đơn từ khiếu nại hoặc nguyện vọng của quần chúng nhân dân;

- Đi thăm bộ đội và các mặt trận, kiểm tra tình hình quân sự.

Nhiệm vụ chủ yếu của các Đặc uỷ Đoàn Chính phủ là:

- Động viên kháng chiến và tăng gia sản xuất;

- Thu lượm ý kiến và nguyện vọng của cán bộ và nhân dân;

- Xem xét các mặt hoạt động của các cơ quan nhà nước, kiểm tra các cơ quan này trong việc lãnh đạo kháng chiến và sản xuất.

Nhiệm vụ của các Đặc phái viên và các Đặc uỷ Đoàn Chính phủ rất to lớn và nặng nề. Trên thực tế, Đặc uỷ Đoàn còn được Chính phủ uỷ nhiệm những quyền hạn rất lớn: ngoài việc nắm tình hình về mọi mặt, có thể thay mặt Chính phủ giải quyết những vấn đề cần thiết tại chỗ, có thể cách chức từ Chủ tịch Uỷ ban Hành chính tỉnh trở xuống…

Phạm vi hoạt động của các Đặc uỷ Đoàn cũng hết sức rộng lớn, bao gồm toàn bộ công việc kháng chiến, kiến quốc của tất cả các cơ quan quân, dân, chính, đảng và các tổ chức quần chúng.

Lúc này, mặc dù trên danh nghĩa, Ban Thanh tra Đặc biệt vẫn tồn tại, nhưng thực tế hoạt động của Ban có nhiều hạn chế. Từ cuối năm 1946, tại kỳ họp thứ hai, Quốc hội khoá I, cụ Bùi Bằng Đoàn đã được Quốc hội bầu làm Trưởng ban Thường trực Quốc hội. Khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, ông Cù Huy Cận được cử giữ chức Tổng Thư ký Hội đồng Chính phủ.

Như vậy, công tác thanh tra của Ban Thanh tra Đặc biệt tạm thời phải ngừng lại. Trong điều kiện đó, hoạt động của các Đặc uỷ Đoàn, các Đặc phái viên Chính phủ và của Ban kiểm tra Trung ương Đảng rõ ràng là mang tính chất Thanh tra Nhà nước, hay nói đúng hơn là thực hiện chức năng như một cơ quan Thanh tra của Chính phủ.

Với việc thành lập các tổ chức và quy định chức năng, nhiệm vụ và hoạt động của các cơ quan nói trên, công tác thanh tra trong những năm đầu kháng chiến toàn quốc vẫn không ngừng được đẩy mạnh, song có sự chuyển hướng cho phù hợp với tình hình mới.

Từ cuối năm 1946 - đầu năm 1947, Trung ương Đảng và Chính phủ đã cử một số Đặc phái viên của Chính phủ đến các địa phương để trực tiếp chỉ đạo kháng chiến.

Do tầm quan trọng của việc tổng di chuyển cơ quan về khu an toàn, tháng 1-1947, Trung ương Đảng thành lập Đội công tác đặc biệt do đồng chí Trần Đăng Ninh làm Đặc phái viên, phụ trách việc nghiên cứu, chuẩn bị địa điểm đặt cơ quan và trực tiếp chỉ đạo cuộc tổng di chuyển. Nhờ vậy cuộc di chuyển diễn ra tuy hết sức khó khăn nhưng bảo đảm được an toàn.

Đầu năm 1947, chế độ Đặc phái viên chính trị được thiết lập trong quân đội. Ngày 28/2/1947, Bộ Tổng chỉ huy quyết định thành lập Phòng cán bộ thuộc Cục Chính trị với nhiệm vụ “trông nom, kiểm soát, hiểu thấu cán bộ”, đồng chí Trần Tử Bình được cử làm Trưởng phòng.

Ngày 3/7/1947, Phòng Kiểm tra Bộ Tổng chỉ huy được thành lập thay thế Phòng Cán bộ Cục Chính trị để kiểm tra kỷ luật quân đội, kiểm tra việc thi hành các mệnh lệnh quân sự, chính trị, tinh thần, năng lực cán bộ quân sự, chính trị các cấp, cùng Tổng tham mưu trưởng, Cục trưởng Chính trị xem xét, đề nghị khen thưởng, điều động, đề bạt cán bộ.

Phòng Kiểm tra gồm những phái viên là các cán bộ trẻ, có văn hoá, đã được rèn luyện và bồi dưỡng qua các lớp học chính trị, nên thường được cử làm nòng cốt trong các đợt học tập chính trị của cơ quan Bộ Tổng chỉ huy.

Khi đi công tác, dù là tập thể hay cá nhân, các phái viên kiểm tra đều được các đồng chí lãnh đạo, chỉ huy các cấp trực tiếp thông báo tình hình, tiếp thu ý kiến đóng góp của đoàn hoặc của phái viên.

Hoạt động của các phái viên Cục Chính trị, Phòng Cán bộ, Phòng Kiểm tra trong thời gian này là tập trung giải quyết một số sai phạm của cán bộ các đơn vị.

Đầu năm 1947, đồng chí Trần Tử bình đi kiểm tra Trung đoàn Thủ đô ở Phú Minh (Đại Từ, Thái Nguyên). Sau những ngày chiến đấu quyết liệt và anh dũng, lập công xuất sắc ở Thủ đô Hà Nội, Trung đoàn đã phạm một số khuyết điểm, làm mất đoàn kết nội bộ, gây bè phái, vi phạm kỷ luật dân vận trong hành quân, bắt cán bộ ở Châu Tự Do…

Sau khi kiểm tra, Đoàn đã đề nghị xử lý nghiêm khắc: cách chức và hạ tầng công tác Chính trị viên Trung đoàn và Trung đoàn trưởng xuống một cấp và đưa ra khỏi quân đội; cách chức và hạ tầng công tác Chính trị viên Tiểu đoàn và Tiểu đoàn trưởng, giải tán đơn vị (Tiểu đoàn 101).

Để tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra trong quân đội, ngày 18/7/1947, Chính phủ ra Sắc lệnh bổ nhiệm đồng chí Lê Thiết Hùng phụ trách Thanh tra quân đội quốc gia Việt Nam. Ngày 25/1/1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 119/SL thành lập Cục Tổng Thanh tra quân đội có nhiệm vụ chủ yếu là kiểm tra việc chấp hành các mệnh lệnh quân sự, chính trị; chấp hành kỷ luật quân đội; đề nghị thưởng phạt, thuyên chuyển cán bộ.

Nghị định của Bộ Tổng chỉ huy ngày 8/9/1948 quy định tổ chức của Cục Tổng Thanh tra quân đội gồm có Phòng Kiểm tra, Phòng Cán bộ và Phòng Văn thư. Sau đó, Cục Tổng Thanh tra thành lập thêm Phòng Nghiên cứu làm nhiệm vụ tổng hợp tình hình và tổng kết kinh nghiệm.

Đứng đầu Cục Tổng Thanh tra quân đội là đồng chí Lê Thiết Hùng, người đầu tiên được bổ nhiệm làm Tổng Thanh tra quân đội, đặt dưới quyền chỉ huy trực tiếp của Tổng chỉ huy.

Đến đây, cơ quan Thanh tra quân đội đã được tổ chức chặt chẽ và có hệ thống từ trên xuống dưới. Hoạt động của lực lượng thanh tra quân đội đã góp phần quan trọng giúp Chính phủ và Bộ Tổng chỉ huy trong các hoạt động quân sự, xây dựng lực lượng vũ trang, đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

Ngay sau khi thành lập, Cục Tổng Thanh tra quân đội đã cử nhiều phái đoàn đi thanh tra ở các địa phương, nhất là ở khu IV, khu V và mặt trận Bình - Trị - Thiên.

Đáng chú ý nhất trong thời gian này là cuộc thanh tra công tác chỉ huy của khu IV. Sau khi kiểm tra, điều tra rõ tình hình, đoàn thanh tra đã báo cáo cụ thể, đúng sự thật về tình hình không chấp hành nghiêm chỉnh mệnh lệnh quân sự của cơ quan lãnh đạo khu IV.

Trước tình hình phức tạp của khu IV, đặc biệt là những khuyết điểm của những người lãnh đạo, đồng chí Tổng Bí thư Trường Chinh đã trực tiếp vào khu IV giải quyết tình hình và củng cố cơ quan lãnh đạo của khu IV.

Tháng 10/1947, trước yêu cầu nhiệm vụ mới, thực dân Pháp chuẩn bị tấn công lên Việt Bắc, Trung ương Đảng quyết định thành lập một đoàn cán bộ đi kiểm tra và chỉ đạo công tác chuẩn bị kháng chiến ở một số tỉnh Việt Bắc. Đồng chí Lê Đức Thọ được Thường vụ Trung ương Đảng cử làm Trưởng đoàn. Các phái viên gồm những đồng chí được rút ra từ lớp học chính trị mang tên Tô Hiệu ở Việt Bắc. Đây là đoàn công tác đầu tiên có trọng trách như một Đặc uỷ Đoàn của Chính phủ. Đoàn đã đến làm việc ở các tỉnh Thái Nguyên, Bắc Cạn, Tuyên Quang…

Với quyền hạn thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ giải quyết vấn đề tại chỗ, đoàn đã kiểm tra, đôn đốc các cấp uỷ đảng và chính quyền, các đoàn thể quần chúng nhân dân tích cực chuẩn bị mọi mặt cho kháng chiến, trước mắt là đối phó với cuộc tấn công của giặc Pháp lên Việt Bắc.

Khi giặc Pháp tấn công lên Việt Bắc, đi đến đâu chúng tàn phá, càn quét, bắn giết đến đấy làm cho nhân dân và cán bộ nhiều nơi hoang mang, lo lắng. Sự có mặt của Đặc uỷ Đoàn Chính phủ bên cạnh các cơ quan chính quyền địa phương đã có tác dụng động viên to lớn tinh thần cán bộ và quần chúng nhân dân.

Cùng với Đặc uỷ Đoàn do đồng chí Lê Đức Thọ lãnh đạo, từ cuối năm 1947, Trung ương Đảng và Chính phủ đã đi kiểm tra và chỉ đạo công cuộc kháng chiến, kiến quốc ở các địa phương, trong đó đáng chú ý nhất là Đặc uỷ Đoàn do đồng chí Trần Đăng Ninh lãnh đạo. Trong thành phần của đoàn, ngoài đồng chí Trần Đăng Ninh và một vài cán bộ giúp việc, còn phần lớn là các nhân sỹ, trí thức lớn đang giữ những chức vụ như Bộ trưởng, Thứ trưởng, Uỷ viên kháng chiến hành chính Liên khu… và có cả Linh mục Phạm Bá Trực, một chức sắc công giáo yêu nước, tích cực ủng hộ kháng chiến. Đoàn công tác của đồng chí Trần Đăng Ninh đã đến nhiều địa phương thuộc Liên khu Việt Bắc, Liên khu X và Liên khu III.

Công việc của đoàn là xem xét tình hình và giải quyết những nhiệm vụ phức tạp, khó khăn, đặc biệt là vấn đề đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo, củng cố Mặt trận dân tộc thống nhất, bảo đảm cơ sở cho kháng chiến thắng lợi. Các chuyến đi công tác đó thực chất là công tác thanh tra Nhà nước được tiến hành bằng hình thức đặc biệt trong hoàn cảnh chiến tranh.

Nhiều lần, đồng chí Trần Đăng Ninh cùng các cán bộ của đoàn đã lên Đà Bắc đi gặp nhà lang Đinh Công Phú, đi thuyết phục Vua Mèo ở Hà Giang, về thăm các vùng công giáo như Phát Diệm, Kim Sơn…

Mặc dù được trao những quyền hạn rất lớn, nhưng cách làm việc của Đặc uỷ Đoàn hết sức thận trọng và có trách nhiệm. Trước khi đến gặp các nhà Lang, Thổ ty, Giám mục, Linh mục… đồng chí Trần Đăng Ninh thường gặp gỡ và làm việc với cấp uỷ Đảng ở địa phương và cùng các thành viên trong Đặc uỷ Đoàn gặp chính quyền nhân dân và các thân hào, thân sỹ ở địa phương, đồng thời gặp những người có liên quan đến sự việc cần giải quyết để tìm hiểu tình hình một cách cụ thể và chính xác.

Nhìn chung, các Đặc phái viên và Đặc uỷ Đoàn Chính phủ đã đi sát các cấp chính quyền, các đơn vị bộ đội và nhân dân, động viên nhân dân vừa kháng chiến vừa sản xuất; thu lượm ý kiến và giải quyết các yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân; kiểm tra và chỉ đạo công tác xây dựng lực lượng bộ đội, dân quân, tổ chức giao thông liên lạc, canh phòng, tăng gia sản xuất, đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo…

Nhờ đó, các chuyến đi của Đặc uỷ Đoàn đã có tác dụng giúp Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trung ương Đảng và Chính phủ nắm được tình hình thực tế cần thiết, củng cố khối đoàn kết dân tộc, giải quyết được nhiều vấn đề khó khăn, phức tạp ở các địa phương.

Trước yêu cầu ngày càng to lớn của cuộc kháng chiến, tháng 10/1948, Ban Chấp hành Trung ương Đảng quyết định thành lập Ban kiểm tra Trung ương và cử đồng chí Trần Đăng Ninh làm Trưởng ban. Đồng chí Trần Đăng Ninh tiếp tục các chuyến đi công tác, đảm nhận tất cả các công việc của cả Trung ương và Chính phủ.

Với quan điểm cán bộ là khâu quan trọng có tính chất quyết định, đồng chí Trần Đăng Ninh hết sức chú ý xây dựng đội ngũ cán bộ của Ban kiểm tra Trung ương. Khi mới thành lập Ban kiểm tra Trung ương, theo đề nghị của đồng chí Trần Đăng Ninh, Trung ương Đảng đã lựa chọn và điều động về hơn 20 cán bộ là Khu uỷ viên và Uỷ viên thường vụ các tỉnh có năng lực, có phẩm chất để làm uỷ viên và phái viên kiểm tra.

Cùng với việc lựa chọn cán bộ, đồng chí Trần Đăng Ninh thường xuyên nhắc nhở các phái viên kiểm tra thực hiện đúng đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ; kiểm tra, thanh tra là để xem cấp dưới có chấp hành đúng không; mặt khác, qua thực tế để xem xét đường lối, chủ trương, chính sách có sát hợp không, có  sai sót không để phản ánh cho cấp trên biết và sửa đổi.

Thực tế hoạt động của các đoàn kiểm tra, thanh tra đã chứng minh một cách sinh động quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về mối liên hệ giữa lãnh đạo và quần chúng nhân dân. Cơ quan kiểm tra, thanh tra có tác dụng to lớn trong việc tạo ra mối liên hệ đó.

Từ cuối năm 1948 đến cuối năm 1949, nhiều đoàn của Ban kiểm tra Trung ương đã được cử đi kiểm tra công tác chuẩn bị kháng chiến và tổ chức chiến tranh nhân dân, cũng như các vấn đề đảm phụ quốc phòng, quỹ nuôi quân, thi đua ái quốc, đoàn kết dân tộc, tôn giáo, sử dụng công quỹ, chống tham ô, lãng phí, thi hành pháp luật… Trong những chuyến đi công tác ở các tỉnh Việt Bắc, trung du, đồng bằng Bắc Bộ, khu IV, ở các đơn vị và cơ sở sản xuất trong quân đội các đoàn vừa làm nhiệm vụ kiểm tra của Đảng, vừa làm nhiệm vụ thanh tra Nhà nước. Có những chuyến đi, xét về nội dung cụ thể thì mang tính chất thanh tra Nhà nước rõ nét hơn.

Song song với những hoạt động thanh tra hoặc có tính chất thanh tra của các Đặc phái viên, Đặc uỷ Đoàn Chính phủ và của Ban kiểm tra Trung ương, của Tổng Thanh tra quân đội, trong những năm 1948 - 1949, Ban Thanh tra các miền cũng có những hoạt động tích cực, nhất là Ban Thanh tra thuộc Uỷ ban kháng chiến hành chính miền Nam Trung Bộ do ông Trần Đình Tri làm Trưởng ban.

Từ ngày 21/1 đến 13/10/1949, đoàn kiểm tra của Ban Thanh tra miền Nam Trung Bộ đã đến kiểm tra tình hình hoạt động mọi mặt của tỉnh Quảng Ngãi và một số huyện, xã trong tỉnh.

Sau khi kiểm tra toàn diện, đoàn đã đưa ra những nhận xét lớn:                                    

- Về ưu điểm:

 Uỷ ban kháng chiến hành chính tỉnh và các cấp huyện, xã đã nhìn bao quát được các mặt hoạt động của địa phương; lề lối làm việc tiến bộ, dần dần đi vào nền nếp;

 Chủ trương công tác thường sát thực;  trong công tác luôn luôn nhằm vào mục tiêu “hưng lợi, trừ hại” cho nhân dân.

 Biết đề cao vai trò của Hội đồng nhân dân; gây được phong trào học chính trị trong công chức; đã thực hiện được việc trao đổi kinh nghiệm bằng cách tổ chức những phái đoàn các xã kém đi tham quan xã khá.

- Về khuyết điểm:

 Kiểm tra nặng về công tác mà nhẹ về nhận thức;

 Chưa có chính sách đào tạo cán bộ chính quyền cũng như chuyên môn; tổ chức chính quyền từ xã xuống đến dân chưa thống nhất.

Đoàn kiểm tra đã báo cáo tình hình lên Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến hành chính miền Nam Trung Bộ để có sự chỉ đạo cấp tỉnh khắc phục, sửa chữa.

Từ ngày 10/10 đến 29/10/1949, đoàn kiểm tra đã đi kiểm tra tỉnh Bình Định. Tổng kết cuộc kiểm tra Bình Định. Đoàn cũng đã kiến nghị với lãnh đạo Liên khu V về công tác lãnh đạo, chỉ đạo của các ngành cấp Liên khu đối với cấp tỉnh:

Từ ngày 10/11 đến 9/12/1949 đoàn kiểm tra của Ban Thanh tra miền Nam Trung Bộ đã đến kiểm tra tình hình tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng và một số huyện, xã trong tỉnh. Sau khi kiểm tra toàn diện các mặt công tác của Uỷ ban kháng chiến hành chính tỉnh.

Như vậy, mặc dù có những khó khăn khách quan, Ban Thanh tra Đặc biệt không có điều kiện hoạt động thường xuyên trong khi Ban Thanh tra Chính phủ chưa ra đời, nhưng công tác kiểm tra, thanh tra vẫn hoạt động liên tục và mạnh mẽ.

Trong điều kiện của cuộc kháng chiến gian khổ và ác liệt, sự có mặt của các Đoàn kiểm tra thay mặt Trung ương Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh ở các địa phương đã động viên to lớn tinh thần quân và dân ta, góp phần quan trọng giúp các cấp uỷ Đảng và chính quyền địa phương nắm vững đường lối, phương châm, chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ đồng thời đã tạo được mối liên hệ giữa Đảng với dân, giữa lãnh đạo và quần chúng, ổn định chính trị, tư tưởng của quần chúng nhân dân, động viên sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc nhằm thực hiện mục tiêu chung - kháng chiến thắng lợi.

III. THÀNH LẬP BAN THANH TRA CHÍNH PHỦ, ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG THANH TRA PHỤC VỤ KHÁNG CHIẾN (1949 - 1954)

1. Thành lập Ban Thanh tra Chính phủ    

Đến cuối năm 1949, cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược đã trải qua được 3 năm. Cùng với những thắng lợi to lớn, chúng ta cũng còn gặp nhiều khó khăn, thử thách hết sức nặng nề. Trung ương Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn nhắc nhở quân và dân ta phải tiến hành cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài và gian khổ.

Trong hoàn cảnh chiến tranh ngày càng ác liệt, giao thông liên lạc giữa các khu, các tỉnh trở nên khó khăn, việc chấp hành đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ đòi hỏi phải được kiểm tra chặt chẽ để trên dưới thông suốt, ngăn ngừa và sửa chữa kịp thời các lệch lạc xảy ra. Tình hình đó càng đòi hỏi phải đẩy mạnh công tác thanh tra. Do vậy, cần củng cố và thống nhất lực lượng thanh tra.

Nhận thấy Ban Thanh tra Đặc biệt không còn phù hợp với giai đoạn lịch sử này nữa. Chính phủ đã quyết định thành lập một Ban Thanh tra mới để thống nhất hoạt động thanh tra trong cả nước.

Trong phiên họp từ ngày 14 đến ngày 16/6/1949, Hội đồng Chính phủ đã điểm lại quá trình thực hiện công tác thanh tra trong những năm qua và nhận thấy: trong những năm đầu của kháng chiến, công tác thanh tra của Ban Thanh tra Đặc biệt tạm thời ít hoạt động hoặc hoạt động chủ yếu là động viên, hướng dẫn nhân dân và các cấp chính quyền tổ chức kháng chiến và sản xuất. Đến đây, Ban Thanh tra Đặc biệt đã làm trọn vai trò lịch sử, đã có những đóng góp to lớn, kịp thời vào công cuộc xây dựng, củng cố và bảo vệ chính quyền cách mạng trước khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Như trong Sắc lệnh thành lập đã nêu rõ, Ban Thanh tra Đặc biệt chỉ có tính cách tạm thời trong hoàn cảnh lịch sử đặc biệt.

Tình hình hiện nay đòi hỏi phải đẩy mạnh hoạt động thanh tra thường xuyên và đúng chức trách của cơ quan Thanh tra Nhà nước. Về lực lượng cán bộ thanh tra, Hội đồng Chính phủ đề nghị cử một vị có tên tuổi, uy tín và danh vọng giữ chức Tổng Thanh tra. Ông Tổng Thanh tra đề nghị Chính phủ cử những thành viên khác trong Ban Thanh tra.

Trong phiên họp từ ngày 25 đến ngày 27/7/1949, Hội đồng Chính phủ quyết định tổ chức lại các Ban Thanh tra ở các Bộ, đồng thời thảo luận làm rõ thêm chức năng, nhiệm vụ của Ban Thanh tra Chính phủ và Ban Thanh tra các Bộ, sự phối hợp và quan hệ giữa Ban Thanh tra Chính phủ với Ban Thanh tra các Bộ, các địa phương.

Đầu tháng 10/1949, tiếp tục thảo luận về công tác thanh tra, Hội đồng Chính phủ nhận thấy:            

- Cần phân biệt công việc kiểm tra và công việc thường xuyên của những người phụ trách. Công việc thanh tra có tính cách đứng trên mà xem xét công việc của một bộ phận.

- Do vậy chỉ đặt cơ quan Thanh tra ở Chủ tịch phủ và các Bộ. Như vậy, công tác thanh tra được Hội đồng Chính phủ thảo luận kỹ lưỡng và cụ thể qua nhiều phiên họp, làm rõ và có sự nhất trí cao trong các thành viên Hội đồng Chính phủ về chức năng, nhiệm vụ của Ban Thanh tra Chính phủ cũng như Ban Thanh tra các Bộ, các địa phương.

Sau nhiều lần thảo luận và thống nhất, chuẩn bị về mọi mặt, giữa tháng 12/1949, tại phiên họp toàn thể, Hội đồng Chính phủ ra quyết nghị giải thể Ban Thanh tra Đặc biệt và thành lập Ban Thanh tra Chính phủ, đồng thời cử các thành viên vào Ban Thanh tra Chính phủ.   

Ngày 18/12/1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 138 B- SL thành lập Ban Thanh tra Chính phủ.

Bản sắc lệnh gồm có 7 điều:  

Điều 1: Nay bãi bỏ Sắc lệnh số 64 ngày 23/11/1945 thành lập Ban Thanh tra Đặc biệt.

Điều 2: Nay đặt một Ban Thanh tra Chính phủ trực thuộc Thủ tướng gồm có:

Một Tổng Thanh tra.

Một Tổng Thanh tra phó.

Ban Thanh tra.

Các vị Tổng Thanh tra, Tổng Thanh tra phó và Thanh tra đều có Sắc lệnh chỉ định.

Điều 3: Giúp việc Ban Thanh tra có một văn phòng và một số phái viên thanh tra do Nghị định của Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm.

Điều 4: Ban Thanh tra có nhiệm vụ:

a. Xem xét sự thi hành chính sách, chủ trương của Chính phủ.

b. Thanh tra các uỷ viên Uỷ ban kháng chiến hành chính và viên chức về phương diện liêm khiết.

c. Thanh tra sự khiếu nại của nhân dân.

    Điều 5: Để thực hiện nhiệm vụ trên, Ban Thanh tra Chính phủ có quyền hạn như sau:

a. Phạm vi thanh tra: các cơ quan của Chính phủ.

b. Chất vấn các uỷ viên Uỷ ban kháng chiến hành chính và viên chức, đòi hỏi tài liệu và sổ sách cần thiết cho công việc thanh tra.

c. Trong trường hợp đặc biệt và khẩn cấp, tạm huyền chức những uỷ viên và viên chức phạm lối:

- Đối với những uỷ viên Uỷ ban kháng chiến hành chính thì từ cấp tỉnh trở xuống, Thanh tra sẽ báo cáo ngay cho cơ quan chỉ định hoặc công nhận để định đoạt về việc thay thế.

- Đối với những viên chức thì từ cấp Liên khu trở xuống, khi đó Thanh tra sẽ báo cáo ngay cho Uỷ ban kháng chiến hành chính trực tiếp điều khiển để chỉ định người tạm thay trong khi chờ đợi sự quyết định của cơ quan có quyền bổ dụng.

Điều 6: Đặc quyền tài phán định trong Sắc lệnh số 9/SL ngày 29/1/1947 cho các vị Bộ trưởng và Thứ trưởng, nay áp dụng đối với các vị trong Ban Thanh tra Chính phủ.

Điều 7: Thủ tướng Chính phủ chiếu Sắc lệnh thi hành.

So với Sắc lệnh số 64 ngày 23/11/1945 về việc thành lập Ban Thanh tra Đặc biệt thì Sắc lệnh ngày 18/12/1949 về việc thành lập Ban Thanh tra Chính phủ có nhiều điều giống nhau về chức năng, nhiệm vụ, phạm vi và đối tượng thanh tra. Cả hai bản Sắc lệnh nói trên đều ghi rõ công việc thanh tra bao gồm cả chức năng xét khiếu tố của công dân.  

Tuy nhiên, do tình hình đặc biệt của thời kỳ 1945 - 1946, quyền hạn của Ban Thanh tra Đặc biệt được quy định rộng lớn hơn, trong đó được quyền định chức, bắt giam bất cứ nhân viên nào trong Uỷ ban nhân dân hay của Chính phủ phạm lỗi. Đến nay, quyền hạn đó tuy có giảm bớt nhưng vẫn rất lớn. Chỉ có trao cho những quyền hạn to lớn như vậy, lực lượng Thanh tra mới tiến hành công việc thanh tra thực sự có kết quả.

Sự quan tâm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Hội đồng Chính phủ cùng với những cơ sở pháp lý do Sắc lệnh nói trên quy định đã tạo ra những điều kiện thuận lợi cho công việc thanh tra, khẳng định thêm vai trò của Thanh tra trong công việc bảo vệ, giải phóng và xây dựng đất nước.

Cũng trong ngày 18/12/1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 138/C-SL cử các vị sau đây vào Ban Thanh tra Chính phủ:

- Tổng Thanh tra: Cụ Hồ Tùng Mậu.  

- Tổng Thanh tra phó: Ông Trần Đăng Ninh.

- Thanh tra: Ông Tô Quang Đẩu.

Đến đây, Ban Thanh tra Chính phủ đã được tổ chức chặt chẽ và có hệ thống. Ngay khi mới thành lập, Ban Thanh tra Chính phủ đã đẩy mạnh hoạt động thanh tra và chỉ đạo công tác thanh tra ở các bộ, các địa phương, làm cho công tác thanh tra đi vào nền nếp, thường xuyên và có tác dụng to lớn trong đời sống mọi mặt của đất nước.

Rõ ràng, công tác thanh tra đã được coi trọng. Qua đó càng tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của lực lượng Thanh tra và ngược lại, lực lượng Thanh tra trở thành một trong những công cụ hết sức quan trọng của chính quyền cách mạng, góp phần thúc đẩy cuộc kháng chiến, kiến quốc mau chóng giành được thắng lợi.

2. Những hoạt động chủ yếu của Ban Thanh tra Chính phủ (1949 - 1954)

Do điều kiện kháng chiến, hầu như tất cả các cơ quan của Trung ương Đảng và Chính phủ đều thiếu thốn cả về cơ sở vật chất và nhân lực. Mặc dù đã được thành lập và có một văn phòng riêng, nhưng Ban Thanh tra Chính phủ vẫn gần như là một cơ quan chung với Ban Kiểm tra Trung ương Đảng.

Nhìn chung, hai tổ chức Kiểm tra của Đảng và Thanh tra Chính phủ có quan hệ mật thiết, có thể nói đều “cùng ăn, cùng ở, cùng làm”. Mối quan hệ chặt chẽ đó trước hết được thể hiện về mặt tổ chức.

Trừ cụ Hồ Tùng Mậu là Tổng Thanh tra Chính phủ và một thư ký riêng, còn từ đồng chí Trần Đăng Ninh đến các cán bộ khác của Ban Kiểm tra Trung ương đều mang hai danh nghĩa: vừa là uỷ viên hay phái viên Kiểm tra Trung ương, vừa là uỷ viên hay phái viên Thanh tra Chính phủ.

Đồng chí Trần Đăng Ninh là Trưởng Ban Kiểm tra Trung ương Đảng được đề cử giữ chức Tổng Thanh tra phó. Các cán bộ khác trong Ban Kiểm tra Trung ương đều được Chính phủ bổ nhiệm làm phái viên của Ban Thanh tra Chính phủ.

Phương thức tổ chức đó đã tạo nên mối quan hệ chặt chẽ giữa hai tổ chức Kiểm tra và Thanh tra. Đồng thời, việc mang hai danh nghĩa (Đảng và Chính phủ) tạo thêm uy tín và vị trí cho các cán bộ thanh tra trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của họ.

Nhằm đưa công tác thanh tra đi vào nền nếp, đồng thời phát huy tác dụng của công tác thanh tra, làm cho quần chúng nhân dân tin tưởng và hỗ trợ đắc lực cho lực lượng thanh tra, các đồng chí lãnh đạo trong Ban Kiểm tra Trung ương và Ban Thanh tra Chính phủ thực sự coi trọng phương pháp thanh tra, thường xuyên bồi dưỡng lý luận và nghiệp vụ cho cán bộ thanh tra.

Nhờ vậy, quan điểm và phương pháp làm việc của các đoàn kiểm tra, thanh tra là đúng đắn và khoa học. Kiểm tra là để tìm ra sự thật, phân biệt rõ đúng, sai, thấy rõ ưu điểm, khuyết điểm. Muốn vậy khi đi kiểm tra, thanh tra phải có thái độ khách quan, không được có định kiến. Người đi kiểm tra, thanh tra “phải nghe bằng hai tai”, “phải nghe nhiều tiếng chuông”, tức là không thể chỉ nghe từ một phía, từ một người mà nghe nhiều phía, nhiều người có liên quan, “trăm nghe không bằng một thấy”, tức là có những việc chỉ nghe thôi thì không đủ, khi cần phải tận mắt thấy sự việc, đến tận nơi sự việc diễn ra để quan sát kỹ tình hình…

Được sự quan tâm, chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, công tác thanh tra, kiểm tra dần dần được nâng lên thành một hệ thống lý luận, phương pháp luận, coi trọng việc dựa vào quần chúng, lắng nghe ý kiến quần chúng để đánh giá sự việc một cách khách quan, chính xác và khoa học. Đó là những  nền móng đầu tiên trong quá trình xây dựng tư tưởng và lý  luận của Thanh tra Việt Nam. Quá trình này lại luôn gắn liền với thực tiễn hoạt động thanh tra.

Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của cụ Hồ Tùng Mậu và đồng chí Trần Đăng Ninh, công tác thanh tra Nhà nước được tiến hành thường xuyên trong những năm 1949 - 1953. Ban Thanh tra Chính phủ đã cử nhiều đoàn cán bộ liên tục đến các địa bàn thuộc Liên khu Việt Bắc, Liên khu III, Liên khu IV…

Các đoàn thanh tra luôn chú trọng thanh tra việc chấp hành sắc lệnh tổng động viên; việc thực hiện chính sách ruộng đất, chính sách thuế nông nghiệp, chuẩn bị các chiến dịch quân sự lớn; thanh tra tình hình chi tiêu tài chính, thống nhất quản lý ngân sách, thanh tra việc chấn chỉnh biên chế; tình hình quan hệ giữa quân đội với các cơ quan chính quyền; thanh tra đường xá giao thông phục vụ chiến trường; thanh tra việc củng cố căn cứ địa Việt Bắc…

Song song với công tác thanh tra việc chấp hành đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, Ban Thanh tra Chính phủ đã phối hợp với Ban Kiểm tra Trung ương Đảng và Ban Thanh tra các Bộ làm rõ một số vụ tham ô lớn trong và ngoài quân đội. Các đoàn thanh tra còn chú trọng giải quyết đơn, thư khiếu tố của nhân dân…

Những cuộc thanh tra nói trên đã mang lại những kết quả tốt đẹp, góp phần tích cực giúp Trung ương Đảng và Chính phủ xem xét việc chấp hành đường lối, chủ trương, chính sách ở các cấp, các ngành, các địa phương; ngăn ngừa và uốn nắn những lệch lạc xảy ra; đồng thời trực tiếp giúp những nơi được kiểm tra phát huy ưu điểm, sửa chữa và khắc phục khuyết điểm, góp phần thúc đẩy và cải tiến công tác, củng cố quan hệ quân, dân, chính Đảng; đấu tranh chống các tệ nạn quan liêu, quân phiệt, lãng phí, tham ô, v..v.

Trong những năm 1949 - 1953, Ban Thanh tra Chính phủ đã tiến hành hàng chục cuộc thanh tra lớn. Có thể nêu lên một số cuộc điển hình sau đây:                 

- Cuộc thanh tra đầu tiên do Ban Thanh tra Chính phủ tiến hành diễn ra trong tháng 2/1950. Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của cụ Hồ Tùng Mậu, đoàn thanh tra đã đi kiểm tra tình hình ở khu căn cứ địa Việt Bắc. Đoàn đã đến huyện Định Hoá và Tràng Định, nơi đặt căn cứ đầu não của Trung ương, Chính phủ và Bộ Tổng tư lệnh quân đội và một số huyện khác thuộc tỉnh Thái Nguyên, Bắc Cạn.

Đoàn đã kiểm tra, xem xét việc xây dựng, củng cố các tổ chức chính quyền, đoàn thể quần chúng; việc chấp hành đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ; việc xây dựng hậu phương, tình hình sản xuất, dự trữ lương thực, thực phẩm; tình hình xây dựng lực lượng dân quân, du kích; công tác phòng gian, bảo mật…

Đây là cuộc thanh tra đầu tiên và toàn diện của Ban Thanh tra Chính phủ. Sau hơn hai tháng kiểm tra, đoàn đã biểu dương tinh thần kháng chiến của đồng bào các dân tộc Việt Bắc, đồng thời nhắc nhở, góp nhiều ý kiến cụ thể với các cấp chính quyền về việc tăng cường, củng cố mối quan hệ quân - dân, thực hiện tốt chính sách dân tộc… Cụ Hồ Tùng Mậu đã báo cáo với Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh kết quả của đợt thanh tra căn cứ địa Việt Bắc.  

- Tháng 5/1950, sau khi nhận được một số đơn, thư phản ánh của quần chúng, Ban Thanh tra Chính phủ đã thành lập đoàn thanh tra do cụ Hồ Tùng Mậu làm Trưởng đoàn vào các tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh thuộc Liên khu IV để kiểm tra tình hình cụ thể.

Đoàn thanh tra đã phát hiện nhiều việc làm sai của các cấp chính quyền ở các địa phương này như: động viên nhân tài vật lực trong nhân dân một cách ồ ạt làm cho quần chúng gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống, thậm chí có nơi mang tính cưỡng bức, vi phạm quyền tự do dân chủ, không tính đến yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân và hoàn cảnh cụ thể của từng gia đình, nhất là những gia đình đang có con em chiến đấu ngoài mặt trận…

Đoàn thanh tra cũng phát hiện nhiều địa phương vi phạm chính sách tôn giáo của Chính phủ; chính quyền ở một số nơi có những hành vi quân phiệt, doạ dẫm, truy bức quần chúng…

Nhờ trực tiếp đi sâu vào quần chúng, đoàn thanh tra đã kịp thời phát hiện những sai lầm, khuyết điểm trầm trọng của một số chính quyền địa phương, có nguy cơ dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng, phá vỡ khối đoàn kết toàn dân…

Một mặt, đoàn thanh tra đã trực tiếp khuyến cáo và đế nghị các cấp uỷ Đảng và Chính quyền ở các tỉnh này chỉnh đốn ngay các sai phạm, thiếu sót, chấp hành đúng đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ; mặt khác, cụ Hồ Tùng Mậu đã làm văn bản báo cáo lên Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Sau khi nhận được báo cáo và nghiên cứu kỹ tình hình, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thấy những sai lầm, khuyết điểm  một số nơi, một số cấp chính quyền ba tỉnh nói trên là rất lớn, ảnh hưởng nghiêm trọng làm mất lòng tin của quần chúng nhân dân. Một mặt, Người chỉ đạo việc sửa chữa những sai lầm, khuyết điểm; mặt khác, Người trực tiếp viết thư cho đồng bào Liên khu IV, nhân danh Chủ tịch Chính phủ nhận lỗi trước đồng bào và hứa sẽ sửa chữa những sai lầm do các cấp chính quyền gây ra.

Việc làm của đoàn thanh tra, đặc biệt là những cử chỉ của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã củng cố lòng tin của quần chúng nhân dân vào Đảng và Chính phủ, củng cố khối đoàn kết toàn dân - nền tảng sức mạnh của công cuộc kháng chiến, kiến quốc.

- Trong những năm 1949 - 1950, nhiều cán bộ trong và ngoài quân đội và quần chúng nhân dân đã than phiền về những hành vi của Trần Dụ Châu, lúc này đang giữ chức Đại tá, Giám đốc Nha quân nhu thuộc Bộ Quốc phòng.

Nhân một chuyến đi công tác, một đại biểu Quốc hội đã phát hiện và tố giác Trần Dụ Châu và đồng bọn về tội tham ô, quân phiệt trong quân đội. Sau khi nhận được thư tố giác, Ban Thanh tra Chính phủ đã phối hợp với Ban Kiểm tra Trung ương và Cục Tổng Thanh tra quân đội thành lập đoàn thanh tra vụ Trần Dụ Châu, trong đó lực lượng Thanh tra quân đội giữ vai trò chủ đạo. Đoàn thanh tra do đồng chí Trần Tử Bình, Phó Tổng thanh tra quân đội làm Trưởng đoàn.

caohoa.caohock19@gmail.com

Đoàn đã tiến hành điều tra, xét hỏi, gặp gỡ nhiều nhân chứng, nghiên cứu các tài liệu, văn bản, giấy tờ… để thu thập chứng cứ và phát hiện vấn đề. Đối tượng thanh tra là một cán bộ cao cấp đang giữ cương vị trọng trách trong quân đội, lại lắm thủ đoạn khôn khéo, biết cách che đậy nên đoàn thanh tra đã phải làm việc hết sức thận trọng. Sau gần hai tháng điều tra, đoàn thanh tra đã có những chứng cứ đầy đủ về tội trạng của Trần Dụ Châu, Lê Sỹ Cửu và một số người khác có liên quan đến vụ án.

Về tội trạng của Trần Dụ Châu, đoàn thanh tra đã kết luận như sau:

+ Biển thủ 57.950 đồng bạc Việt Nam và 449 đô la Mỹ, 28 tấm lụa xanh;

+ Nhận hối lộ 20 vạn đồng của Lê Sỹ Cửu, tay chân của Châu;

+ Bán một số súng lục để lấy tiền ăn chơi;

+ Giam giữ công nhân quân giới trái phép;

 Về tội trạng của Lê Sỹ Cửu, kết luận của đoàn thanh tra cho thấy:

+ Biển thủ 1.500 tấm vải nội hoá trị giá 700.000đồng;

+ Tham ô 40.000 đồng, nói là để trả công vận tải và tiền khuy cúc nhưng không trả; lấy 560.000 đồng tính tăng vào giá vải mua cho bộ đội và 1.155 tấm vải trị giá 660.000 đồng;

+ Ăn hối lộ của bọn buôn lậu và hối lộ Trần Dụ Châu;

+ Giả mạo con dấu của Nha quân nhu để cấp giấy tờ cho bọn buôn lậu;

Những tội trạng nói trên của Trần Dụ Châu, Lê Sỹ Cửu là hết sức nghiêm trọng. Trong điều kiện kháng chiến lâu dài và gian khổ, quân đội ta phải chịu đựng nhiều khó khăn, thiếu thốn. Nhưng kẻ có trách nhiệm nuôi quân lại lợi dụng chức quyền để thoả mãn dục vọng cá nhân. Tội ác đó càng nặng nề hơn nếu chúng ta biết rõ hoàn cảnh sống, chiến đấu của quân và dân ta trong thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến, khi chưa có được mối liên hệ với các nước xã hội chủ nghĩa anh em.

Đoàn thanh tra đã báo cáo lên Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chính phủ và Bộ Quốc phòng về tội trạng của Trần Dụ Châu và đồng bọn. Ngày 5/9/1950, Toà án quân sự tối cao đã mở phiên toà xét xử và kết tội tử hình đối với Trần Dụ Châu. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phê duyệt bản án.

Việc thanh tra làm rõ tội trạng của Trần Dụ Châu và vụ án xét xử y và đồng bọn đã có tác động rất to lớn trong toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta lúc bấy giờ, góp phần quan trọng vào việc giáo dục cán bộ, chiến sỹ đồng thời khôi phục niềm tin cho quân và dân ta…

Kết quả thanh tra và xử lý hành vi của một người vốn giữ cương vị cao trong quân đội càng chứng minh một cách sinh động rằng Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn đề cao kỷ cương, phép nước, trừng trị thích đáng bất cứ ai làm tổn hại đến quyền tự do, dân chủ của nhân dân, lợi dụng địa vị để mưu cầu lợi ích cá nhân.

Kết quả của vụ việc nói trên còn cho thấy vai trò quan trọng của lực lượng Thanh tra khi được đặt đúng vị trí với những chức năng, quyền hạn rõ ràng.

Phát huy kết quả của các cuộc thanh tra. Ban Thanh tra Chính phủ tiếp tục cử nhiều đoàn thanh tra về các địa phương để xem xét tình hình và giải quyết yêu cầu, khiếu nại, tố giác của quần chúng.

Tại phiên họp Hội đồng Chính phủ từ ngày 9 đến 10/7/1950, cụ Hồ Tùng Mậu  đã báo cáo trước Chính phủ những nhận xét về tình hình chung. Vấn đề đảm bảo lương thực cho bộ đội vẫn là vấn đề khó khăn nhất. Các địa phương tuy cố gắng nhiều nhưng vẫn không cung cấp đầy đủ nhu cầu cho bộ đội, nhất là phục vụ các chiến dịch quan trọng. Hoạt động quân sự bị sút kém phần lớn là do thiếu lương thực.

Cụ Hồ Tùng Mậu cũng nêu lên những thiếu sót về tổng động viên. Các địa phương đã làm sai một phần chính sách, nặng về mệnh lệnh mà nhẹ về tuyên truyền, cổ động. Có nơi làm quá đà, bắt ép dân chẳng khác gì hương lý, tổng lý hồi Pháp thuộc. Cụ đề nghị Chính phủ có biện pháp sửa chữa kịp thời những sai sót nói trên.

Từ tháng 8 đến tháng 12/1950, Ban Thanh tra Chính phủ tiếp tục đi thực tế, hướng dẫn các địa phương thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ, đặc biệt là chính sách tổng động viên. Sự có mặt và giúp đỡ kịp thời của Ban Thanh tra đã hỗ trợ đắc lực cho chính quyền các cấp thực hiện tốt các mặt công tác, góp phần đẩy mạnh công cuộc kháng chiến, sản xuất và xây dựng.

Sang năm 1951, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân ta có những chuyển biến quan trọng. Thắng lợi của chiến dịch biên giới Thu - Đông 1950 đã khai thông con đường nối liền nước ta với các nước xã hội chủ nghĩa. Tháng 2/1951, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng được triệu tập tại chiến khu Việt Bắc.

Do yêu cầu của cuộc kháng chiến, ngày 1/5/1951, Chính phủ ban hành thuế nông nghiệp thu bằng thóc nhằm đảm bảo đáp ứng nhu cầu kháng chiến, phát triển sản xuất nông nghiệp, thống nhất và đơn giản chế độ đảm phụ cho dân, thực hiện đóng góp công bằng…

Trước yêu cầu nhiệm vụ mới công tác kiểm tra, kiểm soát. Thanh tra cần được tăng cường và phải được tiến hành thường xuyên. Ngoài các đoàn kiểm tra của Ban Thanh tra Chính phủ, Chính phủ đã lập một số đoàn kiểm tra có tính chất liên hợp bao gồm các đại diện của Ban Thanh tra, các cấp ủy Đảng và các Bộ Tư lệnh quân đội…

Một trong những cuộc kiểm tra mang tính chất phối hợp này là cuộc kiểm tra Mặt trận đường 5 vào tháng 1/1951. Đoàn kiểm tra của Ban Thanh tra Chính phủ phối hợp với Liên khu uỷ III đã đi kiểm tra Mặt trận đường 5. Đây là một mặt trận quan trọng, phụ trách một địa bàn trọng yếu, yết hầu của chiến trường Bắc Bộ. Mặt trận đường 5 gắn chặt các tỉnh: Hà Nội, Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Dương, Kiến An, Hải Phòng.

Sau khi kiểm tra toàn diện về lãnh đạo, tổ chức và hoạt động của Mặt trận đường 5, đoàn kiểm tra nhận thấy trong giai đoạn này. Mặt trận đường 5 đóng vai trò quyết định của chiến trường Bắc Bộ, nhưng trong việc tổ chức chiến tranh nhân dân còn nhiều thiếu sót, nặng nề quân sự mà ít chú ý xây dựng cơ sở trong nhân dân, không chú trọng tuyên truyền, giáo dục, vận động và tập hợp lực lượng quần chúng.

Mặt trận chưa đề ra được phương hướng, nhiệm vụ hoạt động rõ ràng, không thấy rõ quan hệ mật thiết của các địa bàn xung quanh với đường 5, nặng nề về các việc phụ mà không chú trọng công tác chính, không coi trọng công tác tổ chức, cán bộ Đoàn kiểm tra đã báo cáo tình hình lên cấp trên và góp phần giúp Mặt trận sửa chữa thiếu sót.

Từ tháng 1 đến tháng 5/1951, Ban Thanh tra miền Nam Trung Bộ tiếp tục đi kiểm tra một số địa phương, cơ sở ở Liên khu V. Đoàn đã đến kiểm tra tình hình một số nhà lao ở Bình Định, Khánh Hoà; kiểm tra tình hình giao thông vận tải, nhất là việc chuyên chở gạo từ Nam ra Bắc; kiểm tra tình hình hoạt động mọi mặt của một số huyện, xã, đặc biệt là tình hình thực hiện chính sách tổng động viên của Chính phủ.

Đoàn kiểm tra đã chỉ ra những ưu, khuyết điểm của các cấp chính quyền và giúp đỡ họ khắc phục những khó khăn, phát huy ưu điểm, sửa chữa sai lầm, khuyết điểm.

Từ tháng 7 đến tháng 9/1951, Ban Thanh tra Chính phủ phối hợp và chỉ đạo Ban Thanh tra Bộ Tài chính tiền hành tổng kiểm soát, kiểm tra các chi nhánh và chi điếm tín dụng sản xuất ở Liên khu III. Kết quả đã giúp các chi nhánh, chi điếm tín dụng sản xuất thực hiện đúng chế độ, sổ sách, giấy tờ, phát hiện những sai sót trong quá trình thu chi, trong đó một số cán bộ, nhân viên lợi dụng sơ hở trong quản lý để biển thủ công quỹ…

Công tác thanh tra trong thời kỳ này không những xem xét việc chấp hành đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ, giải quyết đơn, thư khiếu tố của nhân dân… mà còn thanh tra để tìm ra sự thật và minh oan cho những người vô tội. Điển hình  là cuộc thanh tra “vụ án H 122”. Đây là một vụ việc phức tạp có liên quan đến hàng trăm cán bộ, đảng viên, chiến sỹ và quần chúng. Những người này bị tình nghi là gián điệp của thực dân Pháp hoạt động trong các tổ chức, cơ quan của ta ở vùng căn cứ địa Việt Bắc.

Sau khi nhận được nhiều đơn, thư kêu oan của cán bộ và quần chúng, nhận thấy đây là một “vụ án” phức tạp, Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định thành lập đoàn kiểm tra, thanh tra bao gồm cán bộ của nhiều ngành, nhiều cơ quan của Đảng, Chính phủ, công an và quân đội và giao cho đồng chí Trần Đăng Ninh làm trưởng đoàn với cương vị là đặc phái viên của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Tháng 3/1949, đoàn đã về tận địa bàn, điều tra, xem xét tình hình tại chỗ và với phương pháp tiếp cận sự việc một cách khoa học, thực tế, khách quan, tin tưởng vào quần chúng, lắng nghe và tôn trọng ý kiến quần chúng… Cuối cùng đoàn đã tìm ra sự thật, phát hiện sai lầm trong vụ  “án oan H122”, giải oan cho hàng trăm cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân.

Kết quả của cuộc thanh tra trên càng chứng tỏ lòng tin của Đảng và Chính phủ vào cán bộ và quần chúng và ngược lại càng làm cho quần chúng tin tưởng vào sự sáng suốt của Đảng, Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh và cơ quan thanh tra.

Ngoài việc minh oan cho những cán bộ và chiến sỹ trong vụ H122, Ban Thanh tra Chính phủ còn điều tra, xem xét để giải oan cho đồng chí Võ Quý Huân, một kỹ sư yêu nước từ Pháp trở về Việt Nam tham gia kháng chiến.

Năm 1952 và đầu năm 1953, hoạt động của Ban Thanh tra Chính phủ tiếp tục được đẩy mạnh. Tháng 3/1952, đoàn kiểm tra, thanh tra của Ban Thanh tra Chính phủ đã về điều tra vụ tham ô công qũy ở công trình kiến trúc giao thông Liên khu III theo đơn, thư tố giác của một số cán bộ, công nhân công trường.

Sau khi xem xét kỹ lưỡng sổ sách kế toán và gặp gỡ nhiều nhân chứng, đoàn kiểm tra kết luận: đây là một vụ tham ô gây hậu quả nghiêm trọng cả về kinh tế, chính trị và quân sự. Đoàn kiểm tra đã thu hồi cho Nhà nước 579.000 đồng, đề nghị truy tố 2 người phạm lỗi nặng và cách chức, cảnh cáo 3 người khác.

Việc làm rõ vụ tham ô nói trên có tiếng vang lớn trong nhân dân, thắt chặt thêm đoàn kết nội bộ và làm cho cán bộ, nhân viên, công nhân công trường hết sức phấn khởi.

Tháng 5/1952, sau khi Ban Thường trực Quốc hội chuyển đơn kiện của nhân dân xã Toàn Thắng (Hiệp Hoà, Bắc Giang) tới Ban Thanh tra Chính phủ. Ban Thanh tra Chính phủ đã cử đoàn kiểm tra về xem xét, điều tra tình hình.

Đoàn đã xem xét, kiểm tra và kết luận vụ việc như sau:

+ Truy tố 2 người trước pháp luật vì tội lạm dụng số thóc của dân đóng góp cho kháng chiến;

+ Trả lại số thóc của dân bị lạm thu;

Trong gần 4 tháng (từ tháng 6 đến tháng 9/1952), Ban Thanh tra Chính phủ đã cử nhiều đoàn kiểm tra đi hầu hết các tỉnh Việt Bắc, Liên khu III, Liên khu IV để kiểm tra tình hình quản lý tài chính của các cấp, các ngành.

Các đoàn kiểm tra đã giúp các địa phương, các ngành nhận thức đúng về sự cần thiết và tầm quan trọng của công tác này, đồng thời đã phát hiện các cấp, các ngành lập nhiều kho qũy riêng, chi tiêu nhiều khoản vô nguyên tắc là nguồn gốc đẻ ra tệ nạn tham ô, lãng phí và buộc các địa phương, đơn vị lập quỹ riêng phải đưa vào ngân sách Nhà nước, thống nhất quản lý với số tiền bình quân mỗi tỉnh từ 200 triệu đến 1.000 triệu đồng (tiền tài chính lúc bấy giờ).

Tháng 10/1952, đoàn kiểm tra của Ban Thanh tra Chính phủ đã đi kiểm tra một số kho tàng thuộc Liên khu III. Trong các nơi đoàn đến, đáng chú ý nhất là kho thóc Ninh Bình. Tại đây, có khoảng hơn 2.000 tấn cất gửi rải rác ở các huyện Nho Quan, Gia Viễn, Yên Mô và Yên Khánh.

Đoàn kiểm tra nhận thấy việc quản lý số thóc ở Ninh Bình không chặt chẽ, không nắm vững số lượng nhập kho và cấp phát. Việc xuất kho, cấp phát không đúng thủ tục cần thiết. Việc bảo quản thóc không đúng quy định làm cho một số lượng lớn thóc bị hư hại. Đoàn đã đề nghị các cấp chính quyền có biện pháp sửa chữa ngay những thiếu sót nói trên.

Đầu năm 1953, Ban Thanh tra Chính phủ đề ra kế hoạch công tác trọng tâm trong năm là thanh tra việc thực hiện chính sách giảm tô, chính sách tạm cấp ruộng đất và chính sách thuế nông ngihệp của Chính phủ, đồng thời tiếp tục giải quyết đơn, thư khiếu tố của nhân dân.

Lúc này, đồng chí Nguyễn Văn Trân được bổ nhiệm làm Tổng Thanh tra Chính phủ, thay cụ Hồ Tùng Mậu đã hy sinh tháng 7/1951 trên đường đi công tác ở khu IV trở về.

Trong những tháng đầu năm 1953, Ban Thanh tra Chính phủ đã thành lập một số đoàn đi kiểm tra việc thực hiện chính sách giảm tô ở một số nơi thuộc Liên khu IV. Những nơi đoàn đến, cán bộ và nhân dân hết sức phấn khởi vì đoàn đã giúp đỡ, hướng dẫn cụ thể việc thực hiện chính sách giảm tô gắn liền với chính sách đoàn kết nhân dân, củng cố lực lượng quần chúng.

Ở các tỉnh khu V và Nam Bộ, công tác thanh tra chủ yếu do lực lượng thanh tra quân đội đảm nhiệm. Nhiều cuộc thanh tra quân đội đã góp phần tích cực vào công tác lãnh đạo và chỉ huy kháng chiến của Đảng, Chính phủ và Bộ Tổng chỉ huy.

Từ giữa năm 1953, để chuẩn bị cho việc thực hiện kế hoạch chiến cuộc trong Đông - Xuân 1953 - 1954 giành thắng lợi quyết định, Đảng và Chính phủ hết sức coi trọng và tăng cường công tác cung cấp cho quân đội. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ thị phải làm cho chiến sỹ “đủ ăn, đủ súng, đủ thuốc”. Tháng 6/1953 Chính phủ quyết định thành lập Hội đồng cung cấp mặt trận và trưng dụng hầu hết cán bộ của Ban Thanh tra Chính phủ vào công tác này.

Như vậy, về danh nghĩa Ban Thanh tra Chính phủ vẫn tồn tại nhưng công việc chủ yếu trước mắt của hầu hết cán bộ thanh tra là phục vụ công tác cung cấp. Do vậy từ giữa năm 1953 đến khi cuộc kháng chiến thắng lợi (tháng 7/1954) hầu như Ban Thanh tra Chính phủ không còn điều kiện để tiến hành công tác thanh tra. Đến đây hoạt động thanh tra tạm thời dừng lại để tập trung toàn lực phục vụ nhiệm vụ cấp bách của cuộc kháng chiến.

 

 

CHƯƠNG II

THANH TRA TỈNH BẮC NINH ĐƯỢC THÀNH LẬP PHỤC VỤ SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ GÓP PHẦN VÀO THẮNG LỢI CỦA CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC (1955- 1975)

 

 

I. CÔNG TÁC THANH TRA VỚI NHIỆM VỤ HÀN GẮN VẾT THƯƠNG CHIẾN TRANH, PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI (1955-1962)

Bắc Ninh là một tỉnh đồng bằng thuộc châu thổ sông Hồng, phía Bắc, Đông Bắc giáp tỉnh Bắc Giang, phía Đông, Đông Nam giáp tỉnh Hải Dương, Hưng Yên; phía Tây và Tây Bắc giáp Thủ đô Hà Nội. Là một tỉnh có vị trí địa lý rất thuận lợi cho sự phát triển cả về chính trị, kinh tế, xã hội và quốc phòng.

Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, miền Bắc hoàn toàn giải phóng, Bắc Ninh bước vào thời kỳ khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội, ổn định đời sống nhân dân. Cùng với các tỉnh trên miền Bắc, Bắc Ninh vừa bước ra khỏi cuộc chiến tranh, gặp muôn vàn khó khăn. Hầu hết các cơ sở sản xuất công nghiệp bị tàn phá, đồng ruộng nhiều nơi bị bỏ hoang. Đường xá, cầu cống hầu như bị phá huỷ, nền tài chính còn yếu kém, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Văn hoá giáo dục còn nhiều hạn chế.

Để thực hiện tốt nhiệm vụ trong thời kỳ mới. Tháng 3/1955 Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã quyết định tăng cường kiểm tra việc thi hành các chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ. Nghị quyết nêu rõ: Cần lập Ban kiểm tra Trung ương và ngành nào cũng tự tổ chức việc kiểm tra của mình để kiểm tra một cách có trọng điểm việc thi hành các chủ trương của Đảng, chính sách của của Chính phủ.

Tại Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (tháng 8 năm 1955) Trung ương tiếp tục khẳng định vai trò quan trọng của công tác thanh tra. Quy định các cấp, các ngành thực hiện chế độ kiểm tra, tăng cường cấp uỷ viên xuống cơ sở đi sát tình hình, lãnh đạo kiểm tra công tác của cấp dưới theo chế độ định kỳ hay đột xuất.

Thực hiện chủ trương của Đảng và trước yêu cầu thực tiễn của công tác  quản lý nhà nước, ngày 28/3/1956 Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã ra sắc lệnh số 261/SL thành lập Ban Thanh tra Trung ương của Chính phủ. Sắc lệnh quy định “Để đảm bảo việc chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, chính sách và mệnh lệnh của Chính phủ; để giữ gìn pháp luật và bảo vệ tài sản của nhà nước, nay thành lập Ban Thanh tra Trung ương của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà”.

Sắc lệnh quy định nhiệm vụ của Ban Thanh tra Trung ương của Chính phủ bao gồm:

a. Thanh tra công tác các bộ, các cơ quan hành chính và chuyên môn các cấp, các doanh nghiệp của nhà nước.

b. Thanh tra việc thực hiện kế hoạch nhà nước, việc sử dụng, bảo quản tài sản Nhà nước, chống phá hoại, tham ô và lãng phí.

Sắc lệnh cũng nêu rõ quyền hạn của Ban Thanh tra và quy định tổ chức của Ban Thanh tra gồm: Tổng Thanh tra, 2 Phó Tổng Thanh tra và một số uỷ viên do Chủ tịch nước bổ nhiệm. Đồng chí Nguyễn Lương Bằng được cử làm Tổng Thanh tra, các đồng chí Nguyễn Côn và Trần Tử Bình được bổ nhiệm làm Phó Tổng Thanh tra.

Tiếp đó, ngày 1/4/1956 Thủ tướng Chính phủ ra Nghị định số 762/TTg quy định về công tác và lề lối làm việc của Ban Thanh tra Trung ương của Chính phủ nghị định nêu rõ: “Ban Thanh tra Trung ương của Chính phủ thường xuyên tiến hành công tác thanh tra căn cứ vào Sắc lệnh quy định và theo các thư tố cáo, khiếu nại của nhân dân đối với cơ quan, cán bộ, công nhân viên của Chính phủ”.

Ngày 26/12/1956, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 1194/TTg  về việc thành lập Ban Thanh tra ở các Liên khu, khu, thành phố và tỉnh.

Nhiệm vụ của Ban Thanh tra các địa phương quy định như sau:

- Thường xuyên Thanh tra việc chấp hành đường lối, chính sách, mệnh lệnh của Chính phủ, việc thực hiện kế hoạch nhà nước và các Chỉ thị, Nghị quyết của cấp trên và của Uỷ ban Hành chính các cấp.

-  Thanh tra việc thi hành dân chủ và kỷ luật trong nội bộ cơ quan, việc sử dụng, bảo quản tài sản của công. 

- Tiếp nhận và xem xét thư khiếu nại và tố cáo của nhân dân, của cán bộ, nhân viên…

Các Ban Thanh tra liên khu, khu, thành phố, tỉnh đặt dưới sự trực tiếp của Uỷ ban Hành chính các cấp và chịu sự hướng dẫn nghiệp vụ của Ban Thanh tra cấp trên.

Trước yêu cầu của đất nước trong tình hình mới, cùng với việc ổn định tổ chức bộ máy các cấp, bộ máy thanh tra cấp liên khu, khu, tỉnh, thành phố cũng được thành lập.

Đầu năm 1957 đồng chí Nguyễn Lương Bằng, Tổng Thanh tra Ban Thanh tra Trung ương của Chính phủ đã về làm việc với lãnh đạo tỉnh Bắc Ninh. Tại buổi làm việc Tổng Thanh tra Ban Thanh tra của Chính phủ đã quán triệt chủ trương của Trung ương về thành lập Thanh tra cấp liên khu, khu, tỉnh, thành phố; về vị trí, tầm quan trọng vai trò của thanh tra trong nhiệm vụ khôi phục, phát triển kinh tế của địa phương; đặc biệt đồng chí lưu ý những tiêu chuẩn của cán bộ làm công tác thanh tra phải thực sự mẫu mực liên khiết, cần - kiệm - liêm - chính; Thanh tra cấp tỉnh đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Uỷ ban hành chính tỉnh và sự hướng dẫn nghiệp vụ của Thanh tra Nhà nước Trung ương.

Quán triệt chủ trương của Trung ương và sự chỉ đạo của Ban Thanh tra của Chính phủ, tỉnh Bắc Ninh đã thành lập Uỷ ban Thanh tra tỉnh, trên cơ sở điều động và phân công một số cán bộ là cán bộ Uỷ ban Kiểm tra Tỉnh uỷ làm công tác Thanh tra, đồng chí Vũ Minh(1), Tỉnh uỷ viên, Trưởng ban Kiểm tra Tỉnh uỷ kiêm Trưởng ban Thanh tra tỉnh.

Thời gian này chức năng, nhiệm vụ và hoạt động của Ban Thanh tra tỉnh và Uỷ ban Kiểm tra Tỉnh uỷ chưa rõ ràng, cả cán bộ lãnh đạo và nhân viên vừa làm nhiệm vụ kiểm tra, vừa làm công tác Thanh tra. Trong những năm 1957 - 1958 nhiệm vụ chính trị của địa phương là khôi phục,  phát triển kinh tế - xã hội, ổn định đời sống nhân dân.

Sau cải cách ruộng đất, sửa sai và chỉnh đốn tổ chức tỉnh Bắc Ninh có rất nhiều vụ việc cần phải giải quyết như: các đơn thư khiếu nại của nhân dân về oan sai trong cải cách ruộng đất, đền bù, hoàn trả nhà cửa, công cụ sản xuất; về thực hiện chính sách thuế nông nghiệp;… Đặc biệt là những mâu thuẫn, mất đoàn kết trong nội bộ nhân dân dẫn đến khiếu kiện ngày càng nhiều, tình hình an ninh nông thôn phức tạp.

Trước những vấn đề bức xúc xã hội đã đặt ra cho công tác Thanh tra, kiểm tra cần gấp rút giải quyết. Tỉnh đã thành lập các đoàn công tác xuống cơ sở để giải quyết các đơn thư khiếu nại, những bức xúc trong nhân dân.  Mặc dù cơ quan thanh tra mới thành lập, công tác còn mới mẻ, cán bộ còn thiếu, chưa có kinh nghiệm nhưng với tinh thần trách nhiệm, vừa làm, vừa rút kinh nghiệm. Công tác thanh tra đã giải quyết được nhiều vụ việc góp phần ổn định tình hình nông thôn lúc bấy giờ.

Qua Thanh tra về kế hoạch khôi phục kinh tế, sửa sai trong cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức, cán bộ thanh tra đã giúp các địa phương, các ngành thấy rõ một số thiếu sót. Trong quá trình tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị địa phương như thiếu chính sách cụ thể về thương nghiệp (bình ổn giá, quản lý thị trường…) đề nghị bổ sung chính sách về thuế nông nghiệp đối với thành phần Trung nông, vấn đề quy định thành phần giai cấp ở các vùng có nhiều nghề thủ công…

Qua các cuộc kiểm tra đã phát hiện được một số lệch lạc và thiếu sót trong việc chấp hành chính sách, đặc biệt là việc thực hiện sửa sai trong cải cách ruộng đất. Một số nơi cán bộ chưa nắm vững và quán triệt đường lối nông thôn của Đảng về công tác sửa sai, quá nhấn mạnh sai lầm của cải cách ruộng đất hoặc ngược lại “Trung, địa chủ lọt lưới” không đúng phương pháp, một số nơi có thiếu sót trong việc đưa người ra ngoài biên chế…vv

Về công tác kiểm tra chống lãng phí, tham ô, thời gian này tuy chưa làm được nhiều nhưng bước đầu đã giúp cấp uỷ, chính quyền và cơ quan chuyên môn thấy được những thiếu sót trong việc bảo quản tài sản, xây dựng kho tàng, gây lãng phí, đồng thời  kiến nghị phương pháp khắc phục như giải quyết hàng tồn kho…

Công tác tiếp nhận và giải quyết khiếu nại của cán bộ, nhân dân đã được chú ý và thu được kết quả đáng kể.   

Trước yêu cầu nhiệm vụ ngày càng cấp thiết. Tháng 5/1957 Ban Thanh tra tỉnh đã tổ chức hội nghị tập huấn bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ thanh tra, kiểm tra trong toàn tỉnh. Sau hội nghị bồi dưỡng nghiệp vụ công tác thanh tra đã có nhiều chuyển biến tích cực.

Về công tác tổ chức cán bộ thời gian này cũng có biến động, đầu năm 1958 đồng chí Vũ Minh, trưởng Ban Kiểm tra, thanh tra tỉnh ốm phải đi viện, đồng chí Lê Hoạt, Tỉnh uỷ viên, được Tỉnh uỷ phân công làm Trưởng ban Thanh tra. Nhiệm vụ của công tác kiểm tra thanh tra trong những năm 1958 - 1959 là:

Về công nghiệp:

- Kiểm tra, thanh tra công tác xây dựng cơ bản và quản lý sản xuất, mà trọng yếu là kiểm tra vấn đề quản lý thi công, chế độ định mức tiêu chuẩn, quản lý nguyên vật liệu, tài vụ và giá thành thi công.

Về thương nghiệp:

- Kiểm tra công tác quản lý kinh doanh của một số cơ sở mậu dịch quốc doanh, kiểm tra các hợp tác xã mua bán, nhất là việc quản lý, phân phối các mặt hàng phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân như trâu bò, phân bón, giống…

Về nông, lâm nghiệp: Kiểm tra việc khai thác, kinh doanh gỗ của ngành lâm nghiệp, kiểm tra một số đơn vị sử dụng máy móc, nhân vật lực khác.

Quán triệt thực hiện nhiệm vụ được giao Ban Thanh tra tỉnh từng bước kiện toàn tổ chức, tăng biên chế, tổ chức tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ, bám sát cơ sở, phấn đấu hoàn thành các nhiệm vụ đã đề ra, như giải quyết đơn thư khiếu nại của nhân dân tại các xã Tân Hồng, Đồng Nguyên (Từ Sơn), Đông Phong, Thuỵ Hoà (Yên Phong), Chi Lăng (Quế Dương), Bình Định, An Bình, Lâm Thao (Gia Lương).

Các huyện Gia Lương, Yên Phong, Từ Sơn, Quế Dương có nhiều khó khăn trong việc thực hiện các Nghị quyết của Tỉnh uỷ, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ đã có công văn chỉ đạo, trưng tập cán bộ về cơ sở giúp. Các huyện thành lập tổ kiểm tra giải quyết đơn khiếu nại tồn đọng. Huyện Gia Lương có 3 tổ xuống giải quyết đơn khiếu nại ở 3 xã: Cao Đức, Vạn Ninh, Thái Bảo. Các huyện Từ Sơn, Yên Phong, Quế Dương đã thanh tra, sửa sai đề nghị hạ thành phần cho 49 hộ, đền bù tài sản thêm cho 55 hộ, vận động, thuyết phục được nhiều hộ, từng bước làm dịu tình hình(1).

Năm 1958 trong điều kiện lực lượng cán bộ vừa thiếu, kinh nghiệm công tác chưa nhiều, tình hình đơn thư khiếu tố ngày càng tăng, song với tinh thần trách nhiệm, cố gắng của cán bộ nên các nhiệm vụ được giao Ban Thanh tra tỉnh đã hoàn thành tốt, góp phần vào hoàn thành nhiệm vụ chính trị địa phương.

Đại hội Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh lần thứ 4 được diễn ra từ ngày 13/2 đến ngày 20/2/1959 tại trường Đảng tỉnh. Đại hội đã đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 1958 và thông qua kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 1959; bầu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh gồm 21 uỷ viên chính thức, 3 uỷ viên dự khuyết. Hội nghị Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh lần thứ nhất bầu Ban Thường vụ gồm 5 đồng chí; đồng chí Nguyễn Ly được bầu làm Bí thư, các đồng chí Nguyễn Bính và Lê Trang được bầu làm Phó Bí thư Tỉnh uỷ. Đồng chí Lê Hoạt(2), Tỉnh uỷ viên được phân công làm Trưởng ban Thanh tra tỉnh kiêm uỷ viên thường trực Ban Kiểm tra Đảng. Thời kỳ này Ban Kiểm tra Thanh tra tỉnh phân công 2 đồng chí làm công tác kiểm tra, còn 4 đồng chí được giao nhiệm vụ thanh tra.

Tháng 3/1959 Hội nghị cán bộ Thanh tra toàn miền Bắc đã được tổ chức. Hội nghị đã đánh giá tình hình hoạt động của ngành Thanh tra và bàn việc kiện toàn tổ chức bộ máy, tăng cường cán bộ cho các ban Thanh tra khu, thành phố, tỉnh. Sau hội nghị này công tác thanh tra tỉnh được chú ý hơn. Kiện toàn bộ máy lãnh đạo, tăng biên chế cho Ban Thanh tra tỉnh.

Đầu năm 1959, Ban Thanh tra tỉnh thành lập đoàn kiểm tra do đồng chí Lê Hoạt phụ trách đã tiến hành kiểm tra 2 cửa hàng là cửa hàng thị xã Bắc Ninh và cửa hàng Đáp Cầu thuộc Công ty Nông Hải sản tỉnh Bắc Ninh. Công tác kiểm tra được tiến hành từ ngày 20/5 đến 30/7/1959. Nội dung: kiểm tra toàn diện cả về công tác tổ chức cán bộ, kế hoạch kinh doanh, chế độ thu - chi tài chính, … Qua hơn 2 tháng triển khai công tác kiểm tra đã đạt được những kết quả tốt.

Tháng 4/1959 công ty Nông - Hải sản Bắc Ninh được tách ra thành hai là Công ty Nông Hải sản và Công ty Vật liệu xây dựng. Mặc dù lực lượng cán bộ vừa thiếu, không ổn định, chưa có kinh nghiệm quản lý nhưng cán bộ công ty làm việc nhiệt tình, trách nhiệm, lao động quên mình, làm cả ngày nghỉ, cán bộ công nhân viên có nhiều cố gắng nên các nhiệm vụ đề ra đều hoàn thành. Đoàn kiểm tra chỉ ra một số yếu kém của 2 cửa hàng cần khắc phục là:

Cán bộ phụ trách cửa hàng chưa nhận thức đầy đủ về chức năng nhiệm vụ, chưa có kinh nghiệm trong công tác quản lý nên còn để thất thoát hoặc hư hỏng hàng hoá; một số cán bộ tinh thần trách nhiệm chưa cao; việc giáo dục cán bộ thực hiện chế độ chính sách về kinh doanh thương nghiệp chưa thường xuyên, chấp hành các quy định về kinh doanh còn lỏng lẻo, gây lãng phí….

Trước thực trạng của công tác quản lý tại 2 cửa hàng, đoàn cũng rút ra một số kết luận và kiến nghị với các cấp có thẩm quyền về việc có thể chia tách nhỏ 2 cửa hàng trên cho phù hợp với trình độ quản lý của cán bộ, đồng thời tăng biên chế cho các cửa hàng;  thực hiện nghiêm chỉnh chế độ hạch toán kinh doanh, sổ sách đảm bảo; tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát, bảo quản hàng hoá, tránh hư hao lãng phí…

Trên lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, Ban Thanh tra tỉnh tập trung kiểm tra phong trào đổi công, tình hình sản xuất nông nghiệp, vấn đề quản lý sản xuất, quản lý lao động, quản lý tài sản, vấn đề thu nhập của xã viên…

Qua kiểm tra phong trào sản xuất ở các địa phương, Ban Thanh tra tỉnh thấy phong trào đổi công năm 1959 phát triển mạnh, quần chúng nhân dân tin tưởng vào đường lối đổi công của Đảng và Nhà nước. Từ đó Ban Thanh tra cũng đề xuất một số vấn đề công tác quản lý nhằm thúc đẩy phong trào  đổi công phát triển hơn, làm tiền đề cho việc xây dựng hợp tác hoá nông nghiệp ở một số địa phương trong tỉnh.

 Hội nghị cán bộ Thanh tra toàn miền Bắc lần thứ tư đã họp tại Hà Nội từ ngày 29/2 đến ngày 5/3/1960. Hội nghị đã thông qua báo cáo tổng kết công tác Thanh tra năm 1960 do Ban Thanh tra Trung ương của Chính phủ trình bày; thảo luận, bàn bạc, trao đổi kinh nghiệm Thanh tra, kinh nghiệm xét khiếu tố và công tác tổ chức cán bộ của ngành. Hội nghị đã nhất trí đề nghị Trung ương Đảng và Chính phủ thành lập Uỷ ban Thanh tra của Chính phủ và Uỷ ban Thanh tra các khu, tỉnh, thành phố cho đến cấp huyện thay cho Ban Thanh tra Trung ương của Chính phủ và Ban Thanh tra các cấp.  

Tại hội nghị Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, ngày 19/2/1960, đồng chí Lê Hoạt được Tỉnh uỷ phân công làm Trưởng ban kiểm tra, Thanh tra. Tháng 9/1960 đồng chí Lê Hoạt chuyển công tác, đồng chí Nguyễn Thắng(3), Tỉnh uỷ viên làm Trưởng ban kiểm tra - Thanh tra tỉnh. Giữa năm 1961 đồng chí Nguyễn Thắng chuyển công tác, đồng chí Nguyễn Lịch, Tỉnh uỷ viên được cử làm Trưởng ban kiểm tra - Thanh tra tỉnh. Tháng 9/1961 đồng chí Nguyễn Lương Mạnh được Tỉnh uỷ phân công làm Trưởng ban kiểm tra - Thanh tra tỉnh.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần III của Đảng (tháng 12/1960) đã xác định nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn này là: Đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thực hiện hoà bình thống nhất đất nước, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước.

Quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III,  Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ 5 và căn cứ vào tình hình thực tiễn, công tác Thanh tra Bắc Ninh năm 1960 tập trung vào một số nhiệm vụ trọng tâm như sau:

- Thường xuyên thanh tra các ngành trong tỉnh nhất là khối kinh tế, chú trọng sản xuất nông nghiệp. Thanh tra việc đẩy mạnh sản xuất, quản lý tài sản, chấp hành chính sách kinh doanh, thương nghiệp và quản lý tài chính.

- Thanh tra việc chấp hành các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, các chính sách của nhà nước và địa phương đã ban hành.

- Đẩy mạnh hoạt động của xét khiếu tố, phát hiện kịp thời các hiện tượng tiêu cực trong sản xuất, kinh doanh…

Năm 1960 Ban Thanh tra tỉnh đã thực hiện nhiều cuộc kiểm tra ở một số đơn vị thuộc ngành thương nghiệp như: kiểm tra ở Hợp tác xã mua bán huyện Gia Lương, kiểm tra phân bón và trâu bò ngành HTX mua bán; kiểm tra công ty bách hoá bông vải sợi Bắc Ninh…

Qua kiểm tra các đơn vị, đoàn kiểm tra đã ghi nhận những mặt mạnh của đơn vị, đồng thời cũng nghiêm khắc chỉ ra những hạn chế, yếu kém và tồn tại cần khắc phục như: trình độ năng lực cán bộ yếu, công tác quản lý lỏng lẻo, chưa đi vào nền nếp, quản lý tài sản còn để lãng phí, hư hỏng, mất mát; tinh thần trách nhiệm của một số cán bộ, công nhân, xã viên còn thấp…

Về xét khiếu tố: 9 tháng đầu năm 1960 Thanh tra tỉnh đã tiếp nhận 81 đơn thư các loại, đã giải quyết được 26 đơn. Các huyện thực hiện việc xét và giải quyết thư khiếu tố tốt là Võ Giàng, Gia Lâm, Thuận Thành.

Về công tác cán bộ: Năm 1960 số cán bộ biên chế của  ngành Thanh tra tăng.  Ban Thanh tra tỉnh có 11 cán bộ, trong đó 3 đồng chí lãnh đạo: Trưởng ban phụ trách nông nghiệp, 2 phó ban; 1 đồng chí phụ trách công thương nghiệp và 1 đồng chí phụ trách đơn thư khiếu tố. Bộ phận kiểm tra nông nghiệp  có 4 đồng chí; kiểm tra công thương nghiệp có 2 đồng chí; xét giải quyết thư khiếu tố 1 đồng chí và bộ phận thường trực Văn phòng có 1 đồng chí.

Năm 1961 - 1962, Ban Thanh tra tỉnh tập trung chủ yếu vào lĩnh vực sản xuất nông nghiệp. Từ ngày 5/5 đến ngày 15/7/1961 Ủy ban Thanh tra tỉnh kiểm tra tình hình thực hiện chính sách lương thực vụ chiêm và triển khai sản xuất vụ mùa năm 1961 ở 6 huyện gồm: Thuận Thành, Yên Phong, Quế Dương, Võ Giàng, Bắc Ninh; riêng huyện Gia Lương đồng chí Nguyễn Thắng, Tỉnh uỷ viên, Chủ nhiệm Ủy ban Thanh tra trực tiếp chỉ đạo. Cuối năm 1961, Ủy ban Thanh tra tỉnh tiếp tục kiểm tra công tác thu mua lương thực vụ mùa và kế hoạch sản xuất vụ Đông Xuân 1961 - 1962. Thời gian kiểm tra 1 tháng (từ ngày 15/11 đến 15/12/1961) đoàn gồm 6 đồng chí do đồng chí Duy Nhâm, Uỷ viên ban làm Trưởng đoàn. Đoàn đã chia làm 3 tổ kiểm tra 3 huyện: Gia Lương, Yên Phong và Thuận Thành. Qua kiểm tra đoàn đã chỉ ra cho các huyện thấy được tính chủ quan của các cấp (huyện, xã) chỉ đạo sản xuất không sát còn buông lỏng quản lý, giao phó cho các xóm, đội sản xuất. Do đó sản xuất giảm sút, năng suất lúa thấp. Tình hình giao nộp sản phẩm và làm nghĩa vụ với Nhà nước chậm; tư tưởng quần chúng xã viên bi quan, dao động, đời sống nhân dân khó khăn. Ngoài ra, Ủy ban  Thanh tra tỉnh cũng thực hiện kiểm tra đối với các ngành công thương như kiểm tra công ty thực phẩm, kiểm tra công ty văn hoá, kiểm tra quốc doanh phát hành sách, …v.v

Năm 1962 kiểm tra một số hợp tác xã với nội dung kiểm tra công tác tài vụ, quản lý vốn; kiểm tra công ty vật liệu sản xuất, công tác kinh doanh phục vụ sản xuất nông nghiệp, đồng thời tiếp tục giải quyết các đơn thư khiếu tố của nhân dân và thực hiện Thông tư 436 TTg của Thủ tướng Chính phủ về công tác giải quyết khiếu nại tố cáo. Tổ chức các lớp tập huấn bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ Thanh tra toàn tỉnh.

Năm 1962, đồng chí Nguyễn Lương Mạnh chuyển công tác, đồng chí Hồ Quang Thành, Tỉnh uỷ viên, Chủ nhiệm Ủy ban Thanh tra tỉnh. Như vậy từ năm 1957 đến đầu năm 1962 công tác kiểm tra Đảng và Thanh tra luôn gắn bó mật thiết với nhau và cấp uỷ cử 1 đồng chí Uỷ viên Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh làm Trưởng Ban Kiểm tra -Thanh tra tỉnh.    

Trong thời gian này, mặc dù số cán bộ làm công tác thanh tra ít, thiếu về số lượng, trình độ năng lực kinh nghiệm còn hạn chế; cán bộ lãnh đạo thay đổi nhiều nhưng nhiệm vụ của thanh tra rất nặng nề, song với tinh thần trách nhiệm cao các cán bộ được giao nhiệm vụ làm công tác Thanh tra đã khắc phục khó khăn và hoàn thành tốt nhiệm vụ được phân công.

II. TỈNH HÀ BẮC ĐƯỢC THÀNH LẬP VÀ CÔNG TÁC THANH TRA GÓP PHẦN QUAN TRỌNG VÀO THỰC HIỆN THẮNG LỢI NHIỆM VỤ XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC (1963-1975)

 

Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội khoá II, kỳ họp thứ V, ngày 27/10/1962 về việc hợp nhất hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang thành tỉnh Hà Bắc. Ngày 7/1/1963 Ban Bí thư Trung ương Đảng (khoá III) ra Nghị quyết số 688- NQ/TW về hợp nhất Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh và tỉnh Bắc Giang thành Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hà Bắc. Cùng với việc kiện toàn các cơ quan, ban ngành của tỉnh, Ủy ban Thanh tra tỉnh cũng được thành lập gồm 8 người, đồng chí Nguyễn Đình Trọng, Tỉnh uỷ viên làm Trưởng ban và các đồng chí Thân Văn Tuế, Nguyễn Văn Tâm, Nguyễn Trọng Chức, Vũ Văn Bái, Lê Phương, đồng chí Quy...(1)

Ngay sau khi được thành lập, Ủy ban Thanh tra tỉnh đã nhanh chóng ổn định tổ chức và xây dựng chương trình kế hoạch công tác phù hợp với đặc điểm của tỉnh mới. Dưới sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ và theo sự chỉ đạo hướng dẫn của Uỷ ban Thanh tra Trung ương của Chính phủ.  Ủy ban Thanh tra tỉnh đã tập trung vào nhiệm vụ kiểm tra việc quán triệt, thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị về cuộc vận động “Nâng cao ý thức trách nhiệm, tăng cường quản lý kinh tế, tài chính, cải tiến kỹ thuật, chống tham ô, lãng phí, quan liêu” gọi tắt là cuộc vận động “Ba xây, ba chống”. Thực hiện Nghị quyết về cuộc vận động “cải tiến quản lý HTX, cải tiến kỹ thuật, nhằm phát triển sản xuất nông nghiệp toàn diện, mạnh mẽ và vững chắc”. Thời gian thực hiện cuộc vận động từ năm 1963 đến năm 1965. Đây là hai nhiệm vụ trọng tâm của ngành Thanh tra tỉnh.

Năm 1963, Ủy ban Thanh tra tỉnh tiến hành thanh tra xây dựng cơ bản công trình xây dựng nhà máy phân đạm Hà Bắc, thanh tra tình hình phân phối lương thực, thực phẩm tại công ty lương thực Hà Bắc…

Công tác giải quyết đơn thư khiếu tố cũng được thực hiện tích cực và hiệu quả. Thời gian này mỗi năm có hàng trăm đơn thư, chủ yếu là lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, Thanh tra tỉnh đã phối kết hợp cùng thanh tra các ngành và thanh tra cấp huyện giải quyết, phục vụ tốt cho cuộc vận động “Ba xây, ba chống”.

Năm 1964 thực hiện sự chỉ đạo của Ủy ban Thanh tra Chính phủ, Ủy ban Thanh tra tỉnh đã tập trung thanh tra việc quản lý các loại vật tư thiết yếu, quản lý tài chính, quản lý lao động, quản lý sản xuất và quản lý dân chủ trong các hợp tác xã nông nghiệp.

Công tác giải quyết đơn thư khiếu tố giai đoạn này được đẩy mạnh, trọng tâm   là thanh tra, đôn đốc, hướng dẫn các ngành, các cấp giải quyết các việc khiếu tố của nhân dân, lấy việc phục vụ cuộc vận động “Ba xây, ba chống” và cuộc vận động cải tiến HTX nông nghiệp làm phương hướng chính; đồng thời giải quyết nhanh chóng các vụ khiếu tố cần thiết, giải quyết những yêu cầu chính đáng của nhân dân; từ đó đề xuất với Đảng, Chính phủ những vấn đề cần phải uốn nắn trong việc chấp hành chủ trương chính sách của Đảng, trong việc giữ gìn dân chủ và kỷ luật nhà nước.

Trong gần 10 năm (1957 - 1965) dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân miền Bắc đã đoàn kết, thi đua lao động sản xuất và đạt được những thành tựu to lớn  trong công cuộc khôi phục, cải tạo và phát triển kinh tế - văn hoá ổn định đời sống nhân dân, làm nghĩa vụ của hậu phương lớn đối với miền Nam trong cuộc đấu tranh thống nhất đất nước.

Cùng với sự lớn mạnh, trưởng thành của một số ngành khác, ngành Thanh tra đã đoàn kết, khắc phục khó khăn hoàn thành tốt các nhiệm vụ của tỉnh và thanh tra cấp trên giao cho, góp phần xứng đáng vào  nhiệm vụ khôi phục phát triển kinh tế - văn hoá, ổn định đời sống nhân dân trong tỉnh.

 Sau gần 10 năm hoạt động, mặc dù có nhiều khó khăn, được sự quan tâm của cấp ủy Đảng, chính quyền, sự phối kết hợp giúp đỡ của các ngành Ban Thanh tra tỉnh đã từng bước ổn định tổ chức bộ máy, tăng cường đội ngũ cán bộ, vừa làm, vừa học rút kinh nghiệm, xây dựng chức năng, nhiệm vụ, phương hướng công tác và phấn đấu hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao, nhất là thực hiện 2 cuộc vận động lớn trong quản lý kinh tế và phát triển nông nghiệp.

Tuy nhiên công tác thanh tra của tỉnh thời kỳ này cũng còn bộc lộ những hạn chế nhất định. Công tác tổ chức không ổn định, cán bộ lãnh đạo thay đổi nhiều; cán bộ được phân công làm công tác thanh tra vừa thiếu, yếu về năng lực trình độ cả chính trị và văn hoá. Hầu hết cán bộ trưởng thành từ trong chiến đấu, trình độ văn hoá chủ yếu là lớp 3, 4, một số tuổi cao, sức khỏe yếu. Mặt khác chưa được đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ. Kinh nghiệm thanh tra, xét giải quyết đơn thư khiếu tố ít, công việc nhiều; nên hạn chế kết quả công tác.

Những thành tựu cũng như hạn chế của ngành Thanh tra trong những năm 1957 - 1965 là kinh nghiệm quý cho cấp uỷ đảng, chính quyền trong việc xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và cũng là bài học quý báu cho ngành Thanh tra trong những năm hoạt động tiếp theo.

Từ giữa năm 1965 đế quốc Mỹ đã ồ ạt đưa quân Mỹ và chư hầu cùng các phương tiện chiến tranh vào miền Nam Việt Nam, tiến hành cuộc chiến tranh cục bộ thay cho chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” đã bị phá sản.

Ở miền Bắc, nhằm phá hoại sự nghiệp xây dựng CNXH, phá huỷ các kho tàng, cầu cống, đánh phá các khu vực quân sự hòng ngăn chặn sự chi viện của hậu phương lớn cho miền Nam. Ngay từ giữa năm 1964 đế quốc Mỹ đã nhiều lần khiêu khích, cho máy bay, tàu chiến bắn phá vùng biển và các tỉnh khu bốn thuộc miền Bắc Việt Nam. Trước tình hình đó, từ ngày 25 đến ngày 27/3/1965 Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp Hội nghị lần thứ 11 và nhận định: “Tình hình một nửa nước có chiến tranh, một nửa nước có hoà bình đã biến thành cả nước có chiến tranh với hình thức và mức độ khác nhau ở mỗi miền; trong cuộc chiến tranh yêu nước cách mạng của nhân dân cả nước chống Mỹ, miền Nam vẫn là tiền tuyến lớn, miền Bắc vẫn là hậu phương lớn nhưng nhiệm vụ của miền Bắc là vừa xây dựng, vừa trực tiếp chiến đấu, vừa chi viện cho tiền tuyến miền Nam… Hướng tích cực nhất để làm thất bại âm mưu của địch là tập trung lực lượng cả nước để đánh bại hoàn toàn địch ở miền Nam”.

Hội nghị đã đề ra nhiệm vụ cấp bách ở miền Bắc là phải kịp thời chuyển hướng tư tưởng và tổ chức, chuyển hướng xây dựng kinh tế và tăng cường lực lượng quốc phòng cho hợp với tình hình mới. Hội nghị nhấn mạnh: “Miền Bắc không còn ở trong thời kỳ xây dựng hoà bình nữa, mà đã bắt đầu ở vào thời chiến”[6]. Do vậy “Phải kịp thời chuyển hướng về tổ chức, điều chỉnh lực lượng công nhân viên giữa các ngành và các địa phương bố trí lại lực lượng cán bộ cho phù hợp với việc chuyển hướng nền kinh tế và tăng cường lực lượng quốc phòng…. cải tiến bộ máy, sửa đổi lề lối làm việc ở tất cả các cấp cho phù hợp với tình hình mới”9.

Thực hiện chủ trương trên, Đảng và Nhà nước quyết định thay đổi tổ chức, giải thể một số cơ quan, trong đó có Uỷ ban Thanh tra của Chính phủ và các cơ quan Thanh tra khu, tỉnh, thành phố để gọn nhẹ bộ máy nhà nước. Bổ sung cán bộ cho các ngành mũi nhọn khác.

Thực hiện quyết định này, ngày 6/4/1965 Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã ra quyết định số 93/NQ-TV.QH phê chuẩn việc “Giải thể Uỷ ban Thanh tra sẽ giao cho thủ trưởng các cơ quan, các ngành, các cấp phụ trách, để gắn liền công tác thanh tra với việc chỉ đạo thực hiện chỉ tiêu, kế hoạch nhà nước và các nhiệm vụ công tác khác”.

Công tác Thanh tra ở Trung ương sẽ do các Văn phòng của Phủ thủ tướng đảm nhiệm. Các bộ phận của Uỷ ban Thanh tra của Chính phủ về đại thể sẽ chuyển giao cho Văn phòng phủ Thủ tướng tuỳ theo phạm vi công tác của từng Văn phòng.

Ở các khu, tỉnh, thành phố, công tác Thanh tra sẽ do Uỷ ban hành chính các cấp đảm nhiệm. Riêng ở các bộ, tổng cục tổ chức thanh tra không giải thể mà vẫn tiếp tục hoạt động. Những cơ quan nào chưa thành lập Ban Thanh tra được phép thành lập để thanh tra các vụ việc do lãnh đạo cơ quan yêu cầu.

Thực hiện quyết định của Đảng và Nhà nước, Tỉnh uỷ, UBND tỉnh đã quyết định giải thể Uỷ ban Thanh tra tỉnh, các tài liệu và nhiệm vụ thanh tra, xét khiếu tố được chuyển cho Văn phòng Uỷ ban Hành chính tỉnh. Văn phòng Uỷ ban Hành chính tỉnh lập phòng xét khiếu tố có 4 đồng chí gồm đồng chí Thân Văn Tuế, đồng chí Vũ Văn Bái, đồng chí Nguyễn Trọng Chức, đồng chí Lê Phương, nguyên là cán bộ của Thanh tra tỉnh điều động sang.

Thời gian này Văn phòng Uỷ ban Hành chính tỉnh sơ tán lên Cao Thượng, Tân Yên, Bắc Giang, bộ phận tiếp dân và xét khiếu tố ở chân núi Quảng Phúc, xã Song Mai. Mặc dù cơ quan phải sơ tán, nhưng thời kỳ này đơn thư khiếu tố của nhân dân ngày càng nhiều, có nhiều nội dung, bao gồm cả về tình hình sản xuất nông nghiệp, về thương nghiệp, về an ninh… công việc bề bộn, cán bộ ít nhưng bộ phận tiếp dân và xét khiếu tố vẫn cố gắng làm việc và giải quyết được nhiều đơn thư khiếu tố của nhân dân, góp phần ổn định tình hình tư tưởng quần chúng.

Cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ngày càng ác liệt và đã gây cho ta nhiều thiệt hại, thêm vào đó là vận chuyển hàng hoá cũng gây thất thoát lãng phí tài sản, vật tư của Nhà nước và làm ảnh hưởng đến đời sống nhân dân.

Trong 4 năm từ năm 1965 đến năm 1968, hệ thống thanh tra Nhà nước từ Trung ương đến cấp khu, tỉnh, thành phố bị giải thể, chỉ còn các Ban Thanh tra của các bộ, ngành hoạt động. Các Ban Thanh tra ngành do nhiều nguyên nhân đã không hoạt động đúng chức năng thanh tra mà chỉ dừng lại ở việc xét khiếu tố và trong công tác này cũng còn nhiều hạn chế.

Trước tình hình đó, trong Thông tư 210/TT-TW ngày 22/12/1967, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã nhận thấy: Về công tác thanh tra, sau khi giải thể Uỷ ban Thanh tra của Chính phủ, đáng lẽ việc lãnh đạo Ban thanh tra của các ngành, việc xét thư khiếu tố của nhân dân phải được coi trọng và tăng cường hơn trước, nhưng ngược lại, nhiều cấp uỷ và đảng đoàn lại rất coi nhẹ, có nơi hầu như buông trôi, làm cho các mặt hoạt động đó rất yếu. Nhiều việc đáng lẽ các Ban Thanh tra phải giải quyết thì lại chuyển sang cho Uỷ ban kiểm tra của Đảng. Do đó Uỷ ban Kiểm tra của Đảng bận rộn nhiều và không thể giải quyết được. Từ đó dẫn đến tình trạng công tác kiểm tra của Đảng không được tăng cường và công tác thanh tra cũng không được đẩy mạnh. Nhiều vụ khiếu nại, tố cáo trong Đảng và của nhân dân, nhất là những vụ đảng viên, cán bộ làm sai đường lối, chính sách, vi phạm đến quyền lợi chính trị và kinh tế của nhân dân chưa được giải quyết tốt, hoặc để ứ đọng, bê trễ, gây ảnh hưởng không tốt đến lòng tin của đảng viên và nhân dân đối với cơ quan Đảng và Nhà nước[7].

Từ việc đánh giá tình hình trên, Ban Bí thư Trung ương Đảng lưu ý các cấp uỷ và các Đảng Đoàn phải hết sức chú trọng lãnh đạo, chỉ đạo công tác kiểm tra Đảng, công tác thanh tra xét khiếu tố của nhân dân. Không chỉ lãnh đạo về nội dung, mà phải chấn chỉnh và bổ sung về mặt tổ chức, làm cho bộ máy tương xứng với nhiệm vụ.

Cuối năm 1968, trước thất bại nặng nề ở cả hai miền Nam - Bắc, đế quốc Mỹ buộc phải xuống thang, chấm dứt ném bom miền Bắc, chịu ngồi đàm phán với ta tại Hội nghị Pari. Cuộc chiến tranh cục bộ ở miền Nam và chiến tranh phá hoại ở miền Bắc mà đế quốc Mỹ tiến hành đã bị quân và dân ta đánh bại.

Miền Bắc nước ta bước vào giai đoạn tạm thời hoà bình, bắt tay vào khôi phục và phát triển kinh tế, văn hoá, tăng cường chi viện cho miền Nam trực tiếp chống Mỹ, nguỵ.

Trước nhiệm vụ mới của đất nước và yêu cầu cần thiết của công tác thanh tra, công tác xét khiếu tố, Đảng và Nhà nước quyết định thành lập Uỷ ban Thanh tra của Chính phủ và Ban thanh tra các tỉnh, thành phố.

Ngày 11/8/1969, Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra Nghị quyết số 780/NQ-TVQH thành lập Uỷ ban Thanh tra của Chính phủ và cử đồng chí Nguyễn Thanh Bình giữ chức Chủ nhiệm Uỷ ban. Quốc hội giao cho Hội đồng Chính phủ xem xét, nghiên cứu để ban hành Nghị định quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Uỷ ban Thanh tra của Chính phủ.

Ngày 31/12/1969, Hội đồng Chính phủ ra Quyết định số 262/CP chuyển vụ xét khiếu tố thuộc Phủ Thủ tướng sang trực thuộc Uỷ ban Thanh tra của Chính phủ từ ngày 1/1/1970.

Tiếp đó, ngày 18 tháng 4 năm 1970, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 176/CT-TW về việc tăng cường công tác kiểm tra, kiểm sát, thanh tra và giải quyết các vụ khiếu nại, tố giác. Chỉ thị nêu rõ:

- Tăng cường hơn nữa công tác kiểm tra trong từng địa phương và từng ngành, cả kiểm tra Đảng và kiểm sát, thanh tra của chính quyền.

- Kiện toàn từng bước một cách thiết thực bộ máy của các Ban Thanh tra chính quyền, các Uỷ ban Kiểm tra Đảng, các Viện Kiểm sát trước hết là các cấp khu, thành, tỉnh, bổ sung cán bộ có năng lực, có tín nhiệm cho các cơ quan đó; củng cố lại tổ chức xét đơn khiếu nại, tố giác đặt trong hệ thống thanh tra của chính quyền. 

- Coi trọng việc tạo điều kiện và tổ chức cho quần chúng phát biểu ý kiến nhận xét, phê bình sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cơ quan Đảng, chính quyền, đoàn thể, công tác của cán bộ, đảng viên, nhân dân bằng các hình thức thích hợp…

Thực hiện Nghị quyết số 780 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và Chỉ thị 176 của Ban Bí thư Trung ương Đảng, ngày 31/8/1970, Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị định số 164/CP về việc tăng cường công tác thanh tra và chấn chỉnh hệ thống cơ quan thanh tra của Nhà nước.

Nghị định của Chính phủ nêu rõ: Thanh tra là một khâu quan trọng trong toàn bộ công tác quản lý của bộ máy Nhà nước. Nhiệm vụ của thanh tra gồm:

 - Trọng tâm là thanh tra kinh tế, nhất là thanh tra việc thực hiện kế hoạch Nhà nước. 

 - Kiểm tra việc chấp hành các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, Chỉ thị, Nghị quyết cấp trên…

Giúp các cơ quan, đơn vị được thanh tra nâng cao tinh thần trách nhiệm và ý thức tổ chức, kỷ luật của cán bộ, công nhân viên chức…

- Xét, giải quyết kịp thời, đúng đắn các vụ khiếu nại, tố giác của nhân dân.

- Đề ra những biện pháp cụ thể để giải quyết kịp thời và tại chỗ những vấn đề cụ thể của cơ sở, đồng thời đề xuất với cơ quan có trách nhiệm để nghiên cứu và giải quyết những vấn đề có tính chất cơ bản, lâu dài về tổ chức, công tác, chính sách, chế độ.

Nghị định cũng nêu rõ phương châm tiến hành công tác thanh tra và chấn chỉnh hệ thống cơ quan thanh tra chuyên trách từ Trung ương tới các địa phương và các ban, ngành.

Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng và Chính phủ, đầu năm 1971, Tỉnh uỷ, Uỷ ban Hành chính tỉnh quyết định tái lập lại Ủy ban Thanh tra tỉnh, tổng số cán bộ có 11 người; đồng chí Ngô Quang Thanh, được cử làm Chủ nhiệm Uỷ ban Thanh tra, đồng chí Thân Văn Tuế được bổ nhiệm làm Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Thanh tra tỉnh. Đồng chí Nguyễn Trung, tổ trưởng tổ Thanh tra khiếu nại, cán bộ có các đồng chí: Lê Phương, Trần Giàng, Nguyễn Văn Huấn, Nguyễn Tự Chinh, Nguyễn Đắc, Nguyễn Thị Hương (đánh máy), Nguyễn Xuân (Lái xe). Tháng 8 năm 1971 đồng chí Nguyễn Thanh Cao, Bí thư huyện uỷ Thuận Thành được điều động và bổ sung làm Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Thanh tra tỉnh. Đối với cấp huyện, Ban Thanh tra cũng được lập lại, có 1 đồng chí Trưởng Ban, 2 đến 3 cán bộ.

Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Hà Bắc lần thứ hai từ ngày 25/5 đến 1/6/1971 Đại hội đã kiểm điểm, đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ thời gian qua và đề ra phương hướng, nhiệm vụ thời gian tới, bầu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh gồm 27 đồng chí. Đồng chí Ngô Quang Thanh, Chủ nhiệm Uỷ ban Thanh tra tỉnh được bầu vào Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh.

Quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ hai là “Phát triển sản xuất nông nghiệp toàn diện, tập trung chuyên canh, thâm canh, tăng năng suất đi lên sản xuất lớn XHCN. Nắm vững nhiệm vụ cấp bách, trước mắt là phải giải quyết vững chắc về lương thực và đưa nhanh chăn nuôi lên thành ngành chính…”, ngành Thanh tra tỉnh xác định nhiệm vụ trọng tâm là phục vụ sản xuất nông nghiệp. Đồng thời chú trọng thanh tra việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng cơ bản và sản xuất hàng tiêu dùng; đẩy mạnh công tác xét và giải quyết khiếu tố, cố gắng đến mức cao nhất trong việc thanh toán các đơn khiếu tố tồn đọng, nhất là các đơn khiếu nại có quan hệ trực tiếp đến lợi ích thiết thực hàng ngày của cán bộ và nhân dân.

Trên cơ sở kế hoạch đã đề ra công tác Thanh tra và xét khiếu tố được đẩy mạnh và thu được những kết quả quan trọng.

Công tác xây dựng tổ chức, chỉ đạo nghiệp vụ luôn được coi là một trong những nhiệm vụ chính của Uỷ ban Thanh tra tỉnh. Đặc biệt là từ khi có Hiệp định Pari, đế quốc Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc công tác này được chú ý hơn. Ủy ban Thanh tra tỉnh đã tổ chức nhiều lớp bồi dưỡng nghiệp vụ cho thanh tra viên và thanh tra cấp huyện.

 

CHƯƠNG III

THANH TRA BẮC NINH VỚI NHIỆM VỤ XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC (1975-1996)

 

Với thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cách mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới, đất nước độc lập - thống nhất và đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong 10 năm thực hiện 2 nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt được, Đảng và Nhà nước ta cũng gặp nhiều khó khăn thách thức và có những sai lầm, khuyết điểm.

Vào những năm cuối thập kỷ 70 đầu 80 thế kỷ XX, tình hình kinh tế - xã hội nước ta lâm vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng. Trên cơ sở tổng kết thực tiễn Đảng ta đã đề ra nhiều chủ trương có tính chất đổi mới từng phần. Tất cả những thử nghiệm ban đầu, về đổi mới từng khâu, từng lĩnh vực là tiền đề để hình thành đường lối đổi mới toàn diện, do đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đề ra (tháng 12/1986). Trong bối cảnh đó, ngành Thanh tra cũng chịu những tác động chi phối hoạt động và kết quả công tác.

Để đủ sức hoàn thành nhiệm vụ trong thời kỳ mới, ngày 18/11/1975 Uỷ ban Thanh tra của Chính phủ đã ban hành quy định số 530/VP - TTr về “Quan hệ công tác, lề lối làm việc của Uỷ ban Thanh tra của Chính phủ” nhằm khẳng định lại những nguyên tắc và nội quy của cơ quan thanh tra của Chính phủ”.

Tiếp đó, đầu năm 1976 Đảng và Chính phủ chủ trương thiết lập tổ chức thanh tra nhân dân tại các cơ sở nhằm kết hợp chặt chẽ giữa Thanh tra của Chính phủ và hoạt động kiểm tra, thanh tra của nhân dân, tạo điều kiện cho nhân dân lao động thực hiện quyền làm chủ tập thể trong việc kiểm tra, giám sát các cơ quan, xí nghiệp nhà nước, các hợp tác xã trong quản lý kinh tế, văn hoá - xã hội, trật tự và đời sống. Ngày 9/1/1976 Thủ tướng Chính phủ ra quyết định số 25/TTg về việc tổ chức BanThanh tra nhân dân ở các đơn vị cơ sở chính quyền, kinh tế, sự nghiệp. Đây là văn bản chính thức đầu tiên trong việc cho ra đời và hình thành một hệ thống các tổ chức thanh tra của quần chúng.

Thực hiện chủ trương trên của Chính phủ, ngày 17/3/1976 Uỷ ban Thanh tra Chính phủ ban hành Thông tư số 2-TT/TTr hướng dẫn thi hành quyết định số 25/TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc tổ chức Ban Thanh tra nhân dân. Thông tư nhấn mạnh và giải thích một cách rõ ràng những quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước về vị trí, vai trò, ý nghĩa của thanh tra nhân dân, đồng thời Thông tư còn xác định, hướng dẫn chi tiết về hệ thống tổ chức, các bước tiến hành việc thành lập, nhiệm vụ, quyền hạn của Ban Thanh tra nhân dân, quan hệ trách nhiệm của các tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể và cơ quan thanh tra chuyên trách với Ban Thanh tra nhân dân…

Thực hiện quyết định số 25/TTg và Thông tư của Uỷ ban Thanh tra, các địa phương trong đó có tỉnh Hà Bắc đã tiến hành việc thành lập các Ban Thanh tra nhân dân. Đó cũng là điều kiện, tiền đề để ngành Thanh tra phối hợp tiến hành các hoạt động thanh tra, kiểm tra thường xuyên, kịp thời đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ mới.

Năm 1976 số cán bộ của Uỷ ban Thanh tra tỉnh lên tới 16 - 18 người, được bố trí thành 4 phòng: Phòng Xét khiếu tố, phòng Thanh tra kinh tế, phòng Thanh tra nông nghiệp và phòng Hành chính tổng hợp, do đồng chí Thân Văn Tuế làm Chủ nhiệm, thay đồng chí Ngô Quang Thanh chuyển công tác khác. Phó Chủ nhiệm là đồng chí Hoàng Tuân và đồng chí Nguyễn Thanh Lộc. Tháng 10 năm 1979, đồng chí Thân Văn Tuế nghỉ hưu theo chế độ, đồng chí Nguyễn Huy Duyên, Bí thư huyện ủy Gia Lương được điều động và bổ nhiệm Chủ nhiệm Ủy ban Thanh tra tỉnh; đến năm 1981, đồng chí Duyên chuyển công tác, đồng chí Hoàng Tuân nghỉ hưu, đồng chí Đỗ Mạnh Ân được bổ nhiệm làm Chủ nhiệm Uỷ ban Thanh tra tỉnh, đồng chí Trần Giàng được bổ nhiệm Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Thanh tra tỉnh; sau đồng chí Đỗ Mạnh Ân chuyển công tác khác, đồng chí Nguyễn Thanh Lộc, được bổ nhiệm làm Chủ nhiệm Uỷ ban Thanh tra tỉnh.

Ngày 1/7/1980 Hội đồng Chính phủ ra quyết định về thống nhất quản lý ruộng đất và tăng cường công tác quản lý ruộng đất trong cả nước. Quyết định của Chính phủ đã giành sự quan tâm lớn đến nội dung quan trọng về giải quyết những tranh chấp về ruộng đất. Thực hiện quyết định trên trong những năm 1981 - 1985 Uỷ ban Thanh tra tỉnh đã phối kết hợp cùng các ngành, các huyện, thanh tra huyện giải quyết nhiều vụ tranh chấp ruộng đất ở các huyện Gia Lương, Yên Phong, Quế Võ…

Nhằm tăng cường công tác quản lý Nhà nước và lập lại trật tự xã hội, ngày 20/5/1981 Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam cho ban hành Pháp lệnh trừng trị tội hối lộ; ngày 10/7/1982 Chủ tịch Hội đồng Nhà nước công bố Pháp lệnh trừng trị các tội đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép. Đây là những văn bản có tính pháp lý, làm cơ sở và chỗ dựa cho cuộc đấu tranh chống tiêu cực ở nước ta trong giai đoạn mới.

Việc quản lý kinh tế ở nước ta theo cơ chế tập trung bao cấp qua những năm tháng chiến tranh đã dần bộc lộ những nhược điểm cơ bản, năng xuất lao động thấp, hạn chế và kìm hãm tính chủ động, sáng tạo của các đơn vị cơ sở và của người lao động. Trước tình hình đó, ngày 13/1/1981 Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 100 -CT/TW về “cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong HTX nông nghiệp”. Ngày 15/1/1981 Hội đồng Chính phủ ra quyết định về “Mở rộng việc trả lương khoán, lương sản phẩm, tiền lương” trong các đơn vị quốc doanh và tập thể khai thác nuôi trồng thủy sản; ngày 21/1/1981 Hội đồng Chính phủ ra quyết định về “Một số chủ trương và biện pháp nhằm tiếp tục phát huy quyền chủ động sản xuất, kinh doanh và quyền tự chủ về tài chính của các xí nghiệp quốc doanh”.

Thực hiện các chủ trương của Trung ương, sự chỉ đạo của Tỉnh uỷ, Uỷ ban Thanh tra tỉnh trong những năm 1981 - 1982 nhiệm vụ trọng tâm của Thanh tra tỉnh thời kỳ này là thanh tra kinh tế, Thanh tra nông nghiệp, xét và giải quyết đơn thư khiếu tố. Do những biến động về kinh tế - xã hội, đơn thư khiếu tố ngày càng nhiều. Nội dung đơn thư thời kỳ này tập trung chủ yếu là kinh tế. Mặc dù cán bộ ít, nhưng với tinh thần tích cực, ngành Thanh tra đã giải quyết được nhiều đơn thư; thanh tra nhiều vụ việc kinh tế. Nổi bật nhất là vụ thanh tra, kiểm tra Công ty Nông sản thực phẩm của tỉnh.

Công ty Nông sản thực phẩm của tỉnh là một đơn vị kinh tế, với nhiệm vụ kinh doanh các sản phẩm của nông nghiệp phục vụ sản xuất. Vào những tháng cuối năm 1980 đầu năm 1981 công ty đã cử cán bộ vào các tỉnh miền Nam, chủ yếu là thành phố Hồ Chí Minh để mua bán trao đổi hàng hoá. Cụ thể là công ty đã vào thành phố Hồ Chí Minh mua vải, đồ dùng gia đình, đường sữa, mỳ chính... mang về phục vụ nhân dân. Trong quá trình mua bán, trao đổi công ty đã tự ý nâng giá, hợp thức hoá chứng từ để ăn chênh lệch. Mặt khác khi hàng chở về, cán bộ công ty đã tuồn ra ngoài cho tư thương, hưởng chênh lệch… gây bất bình trong cán bộ, nhân viên và nhân dân.

Trong vụ mua bán xuất nhập khẩu lợn hơi; mua chè ở Tuyên Quang, Thái Nguyên công ty cũng lợi dụng và tự ý nâng giá… mặt khác công tác cán bộ của Công ty Nông sản thực phẩm cũng có biểu hiện mất dân chủ, gây bè phái vây cánh… đã gây tổn thất lớn tiền của nhà nước và mất lòng tin nhân dân. Qua Thanh tra, kiểm tra Uỷ ban Thanh tra tỉnh đã làm rõ các sai phạm của công ty, cán bộ công ty và đề nghị cấp có thẩm quyền xử lý kỷ luật, đúng người, đúng vi phạm.

Với phương châm vừa bồi dưỡng đào tạo qua lớp học, vừa đào tạo qua thực tế công tác, kết hợp giữa đào tạo với công tác củng cố và phát triển đội ngũ, dưới sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ, UBND tỉnh, chỉ đạo của Uỷ ban Thanh tra của Chính phủ lực lượng cán bộ ngành thanh tra không ngừng được củng cố và tăng cường.

Về biên chế tổ chức cán bộ: Đến năm 1986 Uỷ ban Thanh tra tỉnh có hơn 20 cán bộ, Chủ nhiệm Uỷ ban Thanh tra là đồng chí Phạm Thanh Lộc, Phó Chủ nhiệm là đồng chí Thân Văn Luận và đồng chí Trần Xuân Vòng, thay đồng chí Trần Giàng nghỉ hưu.

Uỷ ban Thanh tra tỉnh có 4 bộ phận trực thuộc: Văn phòng do đồng chí Nguyễn Sỹ Lại, Chánh Văn phòng; phòng Thanh tra kinh tế - xã hội do đồng chí Nguyễn Đức Dũng, trưởng phòng; đồng chí Nguyễn Minh Cảnh, phó trưởng phòng; phòng xét khiếu tố, đồng chí Nguyễn Thành Doãn, trưởng phòng, đồng chí Vũ Bá Túc, phó trưởng phòng; phòng Thanh tra nhân dân, đồng chí Nguyễn Văn Thúc, trưởng phòng. Đến năm 1993 đồng chí Nguyễn Thanh Lộc chuyển công tác khác, đồng chí Nguyễn Đắc Trụ được bổ nhiệm làm Chủ nhiệm Uỷ ban Thanh tra tỉnh. Lúc này đồng chí Thân Bá Cường, làm Chánh Văn phòng, đồng chí Nguyễn Minh Cảnh, trưởng phòng kinh tế - xã hội; đồng chí Vũ Bá Túc, trưởng phòng xét khiếu tố; đồng chí Phan Văn Thưởng, trưởng phòng tiếp công dân.

Đại hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ V của Đảng diễn ra từ ngày 27 đến ngày 31/3/1982 tại Hà Nội. Đề cập đến công tác thanh tra, báo cáo chính trị nêu rõ: “Nhà nước ta phải sử dụng đầy đủ cả quyền lực chính trị và quyền lực kinh tế để giữ vững kỷ cương xã hội, đấu tranh có hiệu quả, chống các hành vi phạm pháp và các tệ nạn xã hội, khắc phục cho được, tình hình không bình thường là nhiều luật và pháp lệnh đã ban hành không được thi hành nghiêm chỉnh, thậm chí không được thi hành. Các cơ quan nhà nước ở Trung ương và địa phương cần phải có thái độ kiên quyết và biện pháp cứng rắn ngăn ngừa và loại trừ các hành động vi phạm quyền làm chủ tập thể của nhân dân, thẳng tay trấn áp bọn phản cách mạng; trừng trị bọn bóc lột không chịu cải tạo, bọn lưu manh côn đồ, bọn đầu cơ, buôn lậu, tham ô; xử lý nghiêm minh những cán bộ, nhân viên lợi dụng chức quyền để làm trái pháp luật… Tăng cường công tác kiểm sát, thanh tra; tổ chức và mở rộng thanh tra nhân dân, chấn chỉnh việc xem xét và giải quyết các đơn từ khiếu tố của nhân dân, khắc phục tình trạng ứ đọng, tình trạng không có cơ quan nào, tổ chức nào chịu trách nhiệm giải quyết đến nơi đến chốn những việc oan ức, những trường hợp quyền lợi công dân bị xâm phạm mà nhân dân yêu cầu thẩm tra xem xét”[8].

Ngày 24/1/1983 - Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ VI (vòng 2) được khai mạc. Đại hội đã đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ V và đề ra phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ nhiệm kỳ 1983 - 1985; bầu Ban Chấp hành gồm 41 đồng chí (39 uỷ viên chính thức,  2 uỷ viên dự khuyết), đồng chí Đỗ Mạnh Ân, Chủ nhiệm Uỷ ban Thanh tra tỉnh được bầu vào Uỷ viên dự khuyết Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh. 

Quán triệt chủ trương của Trung ương, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh và chỉ đạo của UBND tỉnh, Uỷ ban Thanh tra Trung ương, Uỷ ban Thanh tra tỉnh tập trung vào một số nhiệm vụ trọng tâm là: Thanh tra việc thực hiện kế hoạch sản xuất nông nghiệp cung ứng vật tư, huy động lương thực gắn với thanh tra việc thực hiện Chỉ thị 100 của Ban Bí thư; tích cực tham gia đấu tranh chống tiêu cực và tăng cường củng cố hệ thống thanh tra nhân dân.

Qua thanh tra, ngành Thanh tra đã phát hiện, kiến nghị nhiều vấn đề cụ thể liên quan đến cơ chế quản lý và chỉ đạo, ngăn ngừa nhiều biểu hiện tiêu cực trong sản xuất nông nghiệp, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển.

Sang năm 1986, hoạt động của thanh tra đã được cụ thể hoá hơn một bước. Có kế hoạch cụ thể, nội dung từng đợt thanh tra, phối kết hợp với các lực lượng và phát hiện nhiều vấn đề, kiến nghị, giải quyết những khó khăn vướng mắc ở cơ sở, góp phần thúc đẩy sản xuất, đáp ứng yêu cầu phục vụ cho công tác lãnh đạo, chỉ đạo sản xuất nông nghiệp ở địa phương.

Vào những tháng cuối năm 1986 ngành thanh tra đã chỉ đạo và phối hợp với các ngành thanh tra cấp huyện tập trung lực lượng thanh tra việc thực hiện Nghị quyết 08 của Ban Chấp hành Trung ương về giá - lương - tiền; việc thực hiện chủ trương bù giá vào lương, công tác thu đổi tiền; kiểm kê vật tư, hàng hoá, thực hiện giá thu mua lúa, thịt lợn; thanh tra việc quản lý thị trường và thực hiện pháp lệnh thuế công thương nghiệp.

Qua thanh tra thực tế ở cơ sở, Uỷ ban Thanh tra tỉnh đã báo cáo với Tỉnh uỷ, UBND tỉnh về những cố gắng của các địa phương, đơn vị, đồng thời cũng chỉ ra những hạn chế trong việc khắc phục những mất cân đối về vật tư, những lộn xộn, phức tạp về phân phối, quản lý vật tư, giá cả, tình hình tiền lương thực tế của người lao động giảm; đời sống cán bộ, công nhân viên, những người hưởng lương có nhiều khó khăn. Qua đó giúp cho cấp ủy, chính quyền có biện pháp kịp thời chấn chỉnh, từng bước ổn định thị trường.

Công tác xét và giải quyết các khiếu nại, tố cáo của công dân, Ủy ban thanh tra tỉnh đã tích cực giải quyết các đơn thư khiếu tố. Nhiều vụ việc khiếu tố phức tạp và một số vụ tồn đọng đã được giải quyết. Phần lớn các đơn khiếu nại và các trường hợp khiếu kiện trong thời gian này tập trung vào những vấn đề liên quan đến chính sách nông nghiệp và thương nghiệp, quản lý thị trường…

Qua công tác xét và giải quyết khiếu nại tố cáo Uỷ ban Thanh tra tỉnh đã rút ra bài học về công tác quản lý Nhà nước; đồng thời nhận thấy nhiều cơ quan, cán bộ thiếu trách nhiệm, né tránh, sợ va chạm, chưa nghiêm túc xử lý dứt điểm các khiếu tố, nhiều kết luận, quyết định của cấp trên về khiếu tố không được cấp dưới thi hành, gây thiệt thòi đến quyền lợi chính đáng của công dân, làm giảm lòng tin của quần chúng…

Qua hơn 10 năm kể từ ngày đất nước thống nhất, cả nước đi lên CNXH (1975 - 1986) là chặng đường đi lên đầy khó khăn thử thách đối với cách mạng Việt Nam nói chung, với ngành Thanh tra tỉnh Hà Bắc nói riêng. Đây chính là giai đoạn chuyển mình của ngành. Ngành Thanh tra phải đảm đương trọng trách lớn lao, nặng nề vừa thể hiện “là tai mắt của trên, là người bạn của dưới” vừa đổi mới, củng cố, kiện toàn hệ thống tổ chức nhằm tăng cường hiệu lực đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ thời kỳ mới.

Thực hiện sự chỉ đạo của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Uỷ ban Thanh tra nhà nước kết hợp với Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ cùng với ngành Thanh tra tài chính, ngân hàng các địa phương tiến hành thanh tra ở nhiều đơn vị Ngân hàng và một số tỉnh. Sau đó dưới sự hướng dẫn về nghiệp vụ của Thanh tra Nhà nước, Uỷ ban Thanh tra tỉnh đã tiến hành thanh tra hoạt động Ngân hàng, hoạt động tín dụng, tiền tệ, thanh toán, chấp hành kỷ luật tài chính.

Qua thanh tra các ngành thuộc lĩnh vực tài chính ngân hàng, Uỷ ban Thanh tra đã phát hiện những sai phạm trong quản lý và sử dụng ngân sách nhà nước tại một số đơn vị; công tác quản lý ngân sách còn nhiều sơ hở, kỷ luật tài chính công tác kế toán còn nhiều sai phạm. Tình trạng tồn đọng, thất thu thuế xảy ra ở nhiều nơi, gây thiệt hại cho ngân sách nhà nước. Một số đơn vị thương nghiệp quốc doanh, năng lực tổ chức kinh doanh của cán bộ kém, một số cán bộ, nhân viên lợi dụng sơ hở của cơ chế để tham ô.

Năm 1990-1991 là những năm có sự đổ vỡ của quỹ tín dụng nhân dân trong tỉnh, nhiều qũy tín dụng không có khả năng chi trả cho người gửi tiền, nhiều người dân đã kéo đến trụ sở tiếp dân cả ở tỉnh và huyện đề nghị giải quyết. Các cơ quan chức năng như Uỷ ban nhân dân các cấp cùng các ngành liên quan đã có những biện pháp kiên quyết để giải quyết tình trạng trên. Thanh tra các cấp cũng tích cực tham gia làm rõ các vụ việc đúng sai ở một số quỹ tín dụng nhân dân. Với biện pháp tích cực, một số khá lớn tiền gửi của nhân dân đã được trả lại người gửi. Những người sai phạm bắt buộc phải bồi thường hoặc bị truy tố. 

Trong những năm đổi mới của đất nước, vai trò, vị trí của công tác thanh tra và ngành thanh tra ngày càng được tăng cường. Ngày 1/4/1990 Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ký sắc lệnh công bố Pháp lệnh Thanh tra.

Pháp lệnh Thanh tra mở ra một thời kỳ mới cho công tác thanh tra. Pháp lệnh thanh tra khẳng định: “Thanh tra là một chức năng thiết yếu của quản lý nhà nước. Pháp lệnh quy định các tổ chức thanh tra nhà nước có chức năng quản lý công tác thanh tra và thực hiện quyền thanh tra trong phạm vi quản lý nhà nước của ngành và cấp đó, với các nhiệm vụ quyền hạn như sau:

- Thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, kế hoạch nhà nước của các cơ quan, tổ chức và cá nhân.

- Xem xét, kiến nghị cấp có thẩm quyền, hoặc giải quyết theo thẩm quyền các khiếu nại, tố cáo.

- Trong phạm vi các chức năng của mình, chỉ đạo và tổ chức hoạt động thanh tra đối với cơ quan, tổ chức thanh tra. 

- Tuyên truyền hướng dẫn thực hiện pháp luật về thanh tra.

Kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền những vấn đề về quản lý nhà nước cần sửa đổi, bổ sung, hoặc ban hành các quy định phù hợp với yêu cầu quản lý nhà nước.

Theo Pháp lệnh thanh tra, Uỷ ban Thanh tra nhà nước được đổi thành Thanh tra Nhà nước. Sau khi có Pháp lệnh thanh tra được ban hành, thanh tra tỉnh đã tổ chức học tập, nghiên cứu nội dụng pháp lệnh cho cán bộ làm công tác thanh tra và nhân dân. Do đó công tác thanh tra cũng được cấp uỷ, chính quyền các cấp quan tâm hơn, hoạt động thuận lợi hơn và vị thế của thanh tra cũng được nâng lên trong nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội địa phương.

Ngày 7/5/1991 Hội đồng Nhà nước đã ban hành Pháp lệnh Khiếu nại, tố cáo của công dân, thay thế Pháp lệnh khiếu nại, tố cáo năm 1981. Như vậy hoạt động thanh tra, xét khiếu tố đã có bước phát triển rất quan trọng. Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn, tổ chức và phương thức hoạt động thanh tra đã có những bước đổi mới khá căn bản. Công tác thanh tra đã bám sát yêu cầu đặt ra trong sự nghiệp đổi mới, nhất là đổi mới cơ chế quản lý kinh tế.

Theo quy định của Pháp lệnh Thanh tra, ngày 18/6/1991 Hội đồng Bộ trưởng ra Nghị định số 191-HĐBT ban hành quy chế thanh tra viên. Theo nghị định này ở các tổ chức thanh tra nhà nước có thanh tra viên. Thanh tra viên là người có đủ tiêu chuẩn theo quy định, tương ứng với từng cấp thanh tra viên, được cấp có thẩm quyền bổ nhiệm vào ngạch thanh tra viên và được giao trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ theo quy định của pháp lệnh thanh tra. Thanh tra viên có 3 cấp, xếp theo thứ tự từ thấp đến cao: Thanh tra viên cấp I, thanh tra viên cấp II và thanh tra viên cấp III.

Cuộc đấu tranh chống tham nhũng theo quyết định số 240/HĐBT kết hợp với cuộc đấu tranh chống buôn lậu và các hành vi tội phạm theo chỉ thị của Hội đồng Bộ trưởng bước đầu đã phát huy tác dụng trong việc giáo dục cán bộ, đảng viên và hạn chế các hiện tượng tiêu cực, làm tổn thất tài sản của nhà nước và tập thể.

Thực hiện quyết định số 240/HĐBT và sự chỉ đạo của Tỉnh uỷ, UBND tỉnh, ngành Thanh tra đã phải đương đầu với nhiều khó khăn, lực cản từ nhiều phía. Cán bộ thanh tra vừa phải kiên quyết, vừa mềm dẻo đấu tranh với các cá nhân và tập thể, tổ chức vi phạm kỷ cương phép nước. Có những trường hợp phải dựa vào pháp lệnh thanh tra để thực thi nhiệm vụ.

Trong nhiệm vụ chống tệ nạn tham nhũng, ngành thanh tra có vị trí rất quan trọng. Thanh tra cũng là một trong các tổ chức tiên phong, cùng với các cơ quan hữu quan khác, dựa vào sự phát hiện giúp đỡ của quần chúng chống tệ tham nhũng, giữ vững kỷ cương pháp luật.

Đất nước mở cửa, kinh tế phát triển, đời sống nhân dân được cải thiện. Bên cạnh những thành tựu đạt được, một số hiện tượng tiêu cực trên các lĩnh vực văn hoá - xã hội cũng có chiều hướng gia tăng. Trước tình hình đó thanh tra các cấp, các ngành trong tỉnh đã chú ý đến thanh tra những sai phạm trên lĩnh vực văn hoá - xã hội. Từ năm 1991 - 1996 toàn ngành đã phát hiện hàng chục vụ vi phạm về xuất bản, về tình trạng lưu hành các băng hình nhập lậu có nội dung thiếu lành mạnh. Đặc biệt là các sai phạm trong thực hiện chính sách xã hội.

Cùng với sự phát triển của đất nước, trên bước đường tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều nghị quyết, quyết định, Tỉnh uỷ, UBND tỉnh cũng tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, với sự cố gắng của cán bộ thanh tra, ngành thanh tra đã đoàn kết khắc phục khó khăn, vươn lên hoàn thành tốt các nhiệm vụ chính trị của ngành, góp phần cùng đảng bộ và nhân dân trong tỉnh hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ chính trị địa phương.     

 

 

 

CHƯƠNG IV

TỈNH BẮC NINH ĐƯỢC TÁI LẬP, THANH TRA BẮC NINH TIẾP TỤC ĐƯỢC TĂNG CƯỜNG, PHỤC VỤ SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC (1997- 2010)

 

 Nhằm đáp ứng với tình hình và nhiệm vụ mới, ngày 6 - 11- 1996, kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa IX đã ra nghị quyết điều chỉnh địa giới một số tỉnh, trong đó chia tách tỉnh Hà Bắc thành 2 tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang.

Ngày 1- 1- 1997, tỉnh Bắc Ninh chính thức được tái lập sau 34 năm sáp nhập với tỉnh Bắc Giang.

Sau khi tái lập, Bắc Ninh có diện tích tự nhiên là 822,7 km2, dân số 925.997 người. Các đơn vị hành chính gồm 6 huyện, thị xã là các huyện Quế Võ, Yên Phong, Tiên Sơn, Thuận Thành, Gia Lương và thị xã Bắc Ninh, với 123 xã, phường, thị trấn.

Ngày 9- 8- 1999, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 68/NĐ-CP về chia huyện Tiên Sơn và huyện Gia Lương để tái lập các huyện Từ Sơn, Tiên Du, Gia Bình Lương Tài. Như vậy, từ tháng 9- 1999, tỉnh Bắc Ninh có 8 huyện, thị và 123 xã, phường, thị trấn.

Tỉnh Bắc Ninh được tái lập, đáp ứng kịp thời nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội và nguyện vọng tha thiết của cán bộ, đảng viên và nhân dân trong tỉnh.

Là một tỉnh đồng bằng thuộc châu thổ sông Hồng, Bắc Ninh có vị trí hết sức thuận lợi cho phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ, trong tam giác kinh tế Hà Nội-Hải Phòng-Quảng Ninh. Giao thông Bắc Ninh phát triển có cả hệ thống đường bộ, đường sắt, đường sông. 100% số xã có đường ô tô đến trung tâm xã và hầu hết các thôn, xóm. Cuối năm 2000, cầu Hồ được khánh thành. Năm 2002, cầu Phả Lại được khánh thành. Năm 2003, tuyến đường Bắc Ninh- Nội Bài được khánh thành đã tạo cho Bắc Ninh nhiều thuận lợi về cơ sở hạ tầng để phát triển kinh tế.

Bắc Ninh là tỉnh có lịch sử lâu đời, là mảnh đất “địa linh nhân kiệt”, một trong những cái nôi của nền văn minh sông Hồng, có truyền thống hiếu học, khoa bảng, truyền thống yêu nước và cách mạng; có nhiều làng nghề truyền thống, nhân dân cần cù lao động, nhạy cảm với kinh tế thị trường.

Về cơ cấu kinh tế, Bắc Ninh cơ bản là tỉnh nông nghiệp (tỷ trọng nông nghiệp 46%, công nghiệp-xây dựng 24%, dịch vụ 30%). Nghị quyết Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI; XVII và XVIII đã xác định chiến lược phát triển kinh tế của tỉnh là phấn đấu đến năm 2015, Bắc Ninh cơ bản thành tỉnh công nghiệp, năm 2020 trở thành thành phố trực thuộc Trung ương.

Từ năm 1997 đến 2010, nhịp độ tăng trưởng kinh tế của Bắc Ninh đạt 13,5%, nhiều khu công nghiệp, cụm công nghiệp được hình thành và đi vào hoạt động hiệu quả như các khu công nghiệp Quế Võ, Tiên Sơn, Yên Phong, Thuận Thành…; các cụm công làng nghề như Đồng Kỵ, Đình Bảng, Châu Khê, Đại Bái, Phong Khê.

Đây là những thuận lợi, tiền đề quan trọng đẩy nhanh nhịp độ phát triển, xã hội  thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ do Đại hội Đảng bộ lần thứ XVIII đề ra.

I. TỔ CHỨC BỘ MÁY THANH TRA TỈNH BẮC NINH TỪ KHI TÁI LẬP TỈNH

Ngày 6- 1- 1997, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh đã ký Quyết định số 01/UB về việc thành lập các sở, ngành và các hội quần chúng gồm 20 cơ quan nhà nước, 2 cơ quan sự nghiệp và 5 hội quần chúng trong đó có Thanh tra tỉnh Bắc Ninh.

Khi mới tái lập tỉnh, cơ quan Thanh tra tỉnh Bắc Ninh có 15 cán bộ chuyên trách, toàn ngành Thanh tra có 60 cán bộ. Tháng 1/1997, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, UBND tỉnh điều động đồng chí Phạm Sơn, Tỉnh ủy viên, Bí thư Thị uỷ Bắc Ninh về công tác tại Thanh tra tỉnh và bổ nhiệm giữ chức vụ Chánh Thanh tra tỉnh; bổ nhiệm đồng chí Nguyễn Minh Cảnh, làm Phó Chánh Thanh tra tỉnh. Ngày 1- 1- 1998, Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh điều động đồng chí Nguyễn Đức Lê, Tỉnh ủy viên, Trưởng Ban kinh tế Tỉnh uỷ đến và bổ nhiệm giữ chức vụ Chánh Thanh tra tỉnh thay đồng chí Phạm Sơn chuyển công tác. Tháng 5 năm 1998, đồng Nguyễn Phong Châu, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Kiểm tra Tỉnh uỷ được điều động và bổ nhiệm giữ chức Phó Chánh Thanh tra tỉnh. Ngày … - .. 2002, Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh điều động và bổ nhiệm đồng chí Nguyễn Trung Tần, Tỉnh ủy viên, Bí thư Đảng uỷ khối các cơ quan Dân Chính Đảng tỉnh sang giữ chức vụ Chánh Thanh tra tỉnh thay đồng chí Nguyễn Đức Lê chuyển công tác. Tháng 8 năm 2003, đồng chí Nguyễn Phong Châu nghỉ hưu, đồng chí Nguyễn Xuân Bắc, Trưởng phòng Cảnh sát kinh tế được điều động và bổ nhiệm giữ chức Phó Chánh Thanh tra tỉnh. Tháng … năm 2004, đồng chí Trần Văn Chăm, Trưởng Phòng thanh tra kinh tế - xã hội, Thanh tra tỉnh được bổ nhiệm làm Phó Chánh Thanh tra. Tháng 5- 2009, đồng chí Nguyễn Trọng Tân, chuyên viên Văn phòng UBND tỉnh được điều động và bổ nhiệm làm Phó Chánh Thanh tra tỉnh. Năm 2011 đồng chí Nguyễn Trung Tần nghỉ hưu, đồng chí Vương Đức Như tỉnh ủy viên bí thư Đảng ủy khối doanh nghiệp được điều động và bổ nhiệm làm Chánh thanh tra tỉnh. Năm 2015 đồng chí Vương Đức Như nghỉ hưu, đồng chí Nguyễn Văn Vinh tỉnh ủy viên chủ tịch UBND huyện Quế Võ được điều động và bổ nhiệm làm Chánh Thanh tra tỉnh.

Cơ cấu bộ máy của Thanh tra tỉnh gồm:

Văn phòng

Phòng Nghiệp vụ 1

Phòng Nghiệp vụ 2

Phòng Nghiệp vụ 3

Phòng Nghiệp vụ 4

Khi mới tái lập tỉnh Bắc Ninh, trụ sở Thanh tra tỉnh đặt tạm tại Trụ sở UBND phường Ninh Xá, tháng 5 năm 1998 chuyển tới trụ sở chính số 4 đường Phù Đổng Thiên Vương, thành phố Bắc Ninh.

Sau khi tái lập tỉnh, hệ thống thanh tra các huyện, thị, thanh tra sở, ngành tiếp tục được sắp xếp và kiện toàn theo Luật thanh tra. 

II. HOẠT ĐỘNG CỦA THANH TRA TỈNH BẮC NINH PHỤC VỤ SỰ NGHIỆP CNH - HĐH ĐẤT NƯỚC (1997- 2010)

1. Thanh tra trên lĩnh vực kinh tế - xã hội

Sau tái lập tỉnh, tình hình kinh tế - xã hội trong tỉnh có nhiều thuận lợi và đan xen những khó khăn thách thức. Nhân dân phấn khởi, tin tưởng và hăng hái thi đua lao động sản xuất, hệ thống chính trị từng bước được kiện toàn và điều hành các hoạt động kinh tế - xã hội đi vào ổn định. Cùng với các cơ quan, ban ngành của tỉnh, ngành Thanh tra cũng được kiện toàn và đi vào hoạt động.

Ngay từ những ngày đầu sau tái lập tỉnh, được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Tranh tra Chính phủ, Tỉnh ủy, UBND tỉnh, ngành Thanh tra Bắc Ninh từ tỉnh đến huyện, các sở, ngành đã nhanh chóng ổn định tổ chức xây dựng chương trình, kế hoạch công tác và phát động các phong trào thi đua, động viên cán bộ, công nhân viên chức trong ngành hăng hái công tác. Nổi bật là phong trào thi đua lập thành tích chào mừng Đại hội Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh lần thứ XV; Phong trào thi đua xây dựng người cán bộ thanh tra “công tâm, khách quan, dân chủ và sáng tạo” và thực hiện lời dạy của Bác Hồ “Cán bộ thanh tra phải như cái gương cho người ta soi mặt, gương mờ không soi được...”. Các phong trào thi đua đã lôi cuốn, động viên nhiều tập thể, cá nhân hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

Trong những năm 1997 - 2010, nhiệm vụ của ngành Thanh tra tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực: Thanh tra kinh tế - xã hội, giải quyết khiếu nại tố cáo và phòng chống tham nhũng lãng phí.

Về thanh tra kinh tế - xã hội, từ năm 1997 đến năm 2005, toàn ngành đã tiến hành thanh tra, kiểm tra hàng trăm cuộc trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội. Đó là các chương trình, mục tiêu lớn của tỉnh; điển hình một số vụ như sau: Năm 1997, thanh tra dự án 773 tại huyện Gia Lương, năm 1999, thanh tra xây dựng nhà cán bộ trung cao cấp Bệnh viện Đa khoa tỉnh; dự án đầu tư cho khoa học công nghệ ở Gia lương v.v... Riêng năm 2005 tiến hành thanh tra 53 cuộc, kiểm tra 89 cuộc trên các lĩnh vực, tập trung chủ yếu là quản lý ngân sách, quản lý đất đai, quản lý đầu tư xây dựng cơ bản, quản lý tài chính, quản lý HTX, Thanh tra chương trình dự án giao thông nông thôn II, dự án đầu tư xây dựng các trường Trung học cơ sở bằng nguồn vốn ODA...

Qua thanh tra đã phát hiện những sai phạm, đề xuất kiến nghị với cấp có thẩm quyền xử lý nghiêm những tập thể, cá nhân vi phạm pháp luật, tham nhũng, kiến nghị thu hồi cho công quỹ hàng chục tỷ đồng. Đồng thời thông qua thanh tra, kiểm tra đã phát hiện nhiều nhân tố tích cực nhằm tuyên truyền, nhân rộng làm cho đường lối của Đảng, kỷ cương, pháp luật của Nhà nước được thực hiện nghiêm túc.

Từ năm 2006 đến năm 2010, các hoạt động thanh tra kinh tế - xã hội đã có những tiến bộ vượt bậc. Toàn ngành đã thanh tra kiểm tra được hơn 600 cuộc và luôn hoàn thành vượt kế hoạch đầu năm. Nội dung thanh tra kiểm tra chủ yếu thời kỳ này là các lĩnh vực quản lý, sử dụng đất đai, xây dựng cơ bản về giao thông thủy lợi, quản lý, sử dụng ngân sách, tài chính thôn, mua sắm trang thiết bị trường học, bệnh viện... điển hình nhất là vụ thanh tra, kiểm tra công tác quản lý tài chính, công tác tổ chức cán bộ tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh; vụ đun đốt lò gạch tại huyện Gia Bình...

Qua thanh tra, kiểm ta đã phát hiện sai phạm, xử lý về kinh tế hàng chục tỷ đồng, thu về cho ngân sách nhà nước, kiến nghị, đề xuất với các cơ quan có thẩm quyền xử lý một số cán bộ lãnh đạo, tập thể vi phạm nguyên tắc quản lý tài chính, quản lý đất đai, tham nhũng tiêu cực...

Qua thanh tra kiểm tra cũng cho thấy công tác quản lý kinh tế của một số đơn vị hành chính sự nghiệp còn vi phạm Luật kế toán thống kê, vi phạm luật ngân sách Nhà nước. Tình trạng chi không rõ nội dung, chứng từ không rõ ràng diễn ra khá phổ biến. Việc chi tiêu sử dụng kinh phí sai mục đích và còn lãng phí trong dịp Tết Nguyên Đán, đi tham quan, nghỉ mát...

Về đất đai còn xảy ra tình trạng vi phạm quy định về quản lý đất đai; một số doanh nghiệp thuê đất nhưng sử dụng kém hiệu quả, thanh tra kiến nghị với các cấp thẩm quyền thu hồi v.v...

Trong lĩnh vực xây dựng cơ bản: Một số đơn vị thực hiện xây dựng công trình chưa thực hiện đầy đủ trình tự, thủ tục về xây dựng cơ bản, chất lượng công trình thấp. Việc thẩm định thiết kế dự toán, nghiệm thu, quyết toán còn thiếu chặt chẽ, tình trạng quyết toán sai khối lượng, chủng loại vật tư, sai hóa đơn, nhân công còn xảy ra. Riêng năm 2009 toàn ngành đã thực hiện thanh tra, kiểm tra 193 cuộc, tại 1.395 đơn vị, tổ chức doanh nghiệp, tổ chức kinh tế. Trong đó đã kết thúc 184 cuộc và có kết luận, còn 9 cuộc tiếp tục thực hiện. Thanh tra hành chính 65 cuộc, kết thúc 56 cuộc. Kết quả đã phá hiện và xử lý 96 đơn vị, cá nhân. Tổng số vi phạm về kinh tế 13 tỷ 564 triệu đồng; 2.364m2 đất. Đã kiến nghị xử lý và thu hồi cho nhà nước 4 tỷ 77 triệu đồng, kiến nghị xử lý 25 tập thể, cá nhân vi phạm nguyên tắc quản lý tài chính v.v...

Trên các lĩnh vực quản lý, sử dụng đất đai, tài nguyên khoáng sản, môi trường, quản lý thực hiện các dự án xây dựng; quản lý, sử dụng tài chính ngân sách doanh nghiệp cũng được kiểm tra, thanh tra. Việc cổ phần hóa các doanh nghiệp cũng được thanh tra trên diện rộng.

Về thanh tra, kiểm tra chuyên ngành cũng được quan tâm. Năm 2009 đã tiến hành thanh tra, kiểm tra chuyên ngành 128 cuộc, tại 973 đơn vị, cá nhân thuộc các lĩnh vực tài chính, thương mại công nghiệp, tài nguyên - môi trường, y tế, giáo dục, chính sách xã hội, thông tin truyền thông, khoa học công nghệ, xây dựng...

Năm 2010, năm cuối thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ XVII, thi đua lập thành tích chào mừng Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII, ngành Thanh tra đã tập trung chỉ đạo toàn ngành từ tỉnh đến cơ sở tiến hành thanh tra các vụ việc nổi cộm trên nhiều lĩnh vực góp phần quan trọng làm ổn định tình hình an ninh, chính trị trật tự xã hội, phục vụ tốt Đại hội Đảng bộ các cấp, Đại hội Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh lần thứ XVIII.

2. Công tác giải quyết khiếu nại tố cáo

Tháng 12- 1998, tại kỳ họp thứ 4 Quốc hội khoá X đã thông qua Luật khiếu nại, tố cáo, thay thế Pháp lệnh khiếu nại, tố cáo năm 1991. Luật khiếu nại, tố cáo là văn bản có tính pháp lý cao nhất từ trước tới nay về khiếu nại, tố cáo của công dân. Luật bao gồm 9 chương, 13 điều trong đó quy định cụ thể quyền, nghĩa vụ của người khiếu nại, người bị khiếu nại, người tố cáo, người bị tố cáo; thẩm quyền quản lý công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo; việc tổ chức tiếp công dân; khen thưởng và xử lý vi phạm... 

 Việc thông qua Luật khiếu nại, tố cáo là một bước tiến quan trọng trong việc thể chế hoá quyền khiếu nại, tố cáo một trong những quyền cơ bản của công dân đã được Hiến pháp ghi nhận, thể hiện quan điểm, đường lối của Đảng về xây dựng một Nhà nước của dân, do dân và vì dân, phát huy quyền dân chủ của nhân dân. Luật khiếu nại, tố cáo được ban hành đã đáp ứng đòi hỏi bức thiết về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo trong giai đoạn thực hiện mục tiêu chiến lược phát triển của đất nước trong 10 năm (2001- 2010) mà Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đề ra là: “Đổi mới cơ chế, xác định trách nhiệm của các cấp, các cơ quan, cán bộ, công chức trong việc giải quyết kịp thời khiếu nại, tố cáo của công dân”([9]).

Sau khi Luật khiếu nại, tố cáo được Quốc hội thông qua, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 67/NĐ-CP ngày 7- 8- 1999, quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật.

Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Thanh tra Nhà nước, của Tỉnh uỷ, Thanh tra tỉnh Bắc Ninh đã chủ động tham mưu giúp UBND tỉnh phổ biến, triển khai Luật tới các huyện, thị xã, lãnh đạo các cơ quan, ban, ngành của tỉnh. Phối hợp với Sở Tư pháp, Báo Bắc Ninh, Đài Phát thanh và Truyền hình tỉnh; các đài truyền thanh huyện, thị xã thông tin tới đông đảo nhân dân về Luật khiếu nại, tố cáo, Nghị định số 67/NĐ-CP, các tài liệu tuyên truyền của liên ngành Thanh tra- Tư pháp, các văn bản hướng dẫn thi hành Luật.

  Từ năm 1999 tình hình khiếu nại, tố cáo có chiều hướng gia tăng và ngày càng có những diễn biến phức tạp. Năm 1999, Đoàn đại biểu Quốc hội, Thường trực HĐND, UBND tỉnh, Thanh tra tỉnh, các ngành của tỉnh, UBND và Thanh tra các huyện, thị xã đã tiếp 3.379 lượt công dân đến khiếu nại, tố cáo tăng hơn năm 1998 là 1.134 lượt người (50,5%). Năm 2000, đã tiếp 3.539 lượt công dân đến khiếu nại, tố cáo, tăng 160 lượt người so với cùng kỳ năm 1999. Tai trụ sở tiếp công dân của các cấp, các ngành có 45 Đoàn đông người; Đoàn đông nhất 52 người (thôn Đồng Chuế, xã Nhân Hoà, huyện Quế Võ). Có 9 Đoàn từ các huyện Gia Bình, Quế Võ, Từ Sơn, Thuận Thành ra khiếu tố tại trụ sở tiếp công dân của Trung ương Đảng, Nhà nước và Quốc hội (Hà Nội).

  Điều đáng quan tâm là công dân đến khiếu nại, tố cáo tại trụ sở tiếp dân của tỉnh ngày càng tăng. Năm 1999 tăng hơn năm 1998 là 1.134 lượt người, có 95 đoàn khiếu kiện đông người. Trong 95 đoàn đông người, UBND tỉnh và Thanh tra tỉnh tiếp 30 đoàn, huyện Quế Võ tiếp 28 đoàn, huyện Thuận Thành tiếp 11 đoàn (đoàn đông nhất 70 người). Năm 2000 có 45 đoàn đông người và đã có 9 đoàn từ các huyện Gia Bình, Từ Sơn, Quế Võ, Thuận Thành ra khiếu tố tại trụ sở tiếp dân của Trung ương Đảng, Nhà nước, Quốc hội và Chính phủ.

 Năm 2002 toàn tỉnh đã tiếp nhận 2.544 đơn, tăng so với cùng kỳ là 207 đơn. Trong đó, khiếu nại 605; tố cáo 306, các dạng khác 1.633 đơn.

 Năm 2003, có 2.946 lượt công dân đến khiếu nại, tố cáo và kiến nghị. Tại trụ ở tiếp công dân của các cấp, các ngành đã tiếp 58 lượt đoàn khiếu kiện có nhiều công dân, trong đó vượt cấp lên tỉnh và Trung ương là 22 đoàn.

  Trong thời gian từ năm 2004 đến 2007, Tỉnh uỷ, UBND tỉnh đã quan tâm, chỉ đạo cơ quan chức năng xây dựng và ban hành một số văn bản có tính pháp luật quy định về công tác tiếp công dân và giải quyết, xử lý khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân như Chỉ thị số 22-CT/TU ngày 20/5/2005 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ về tiếp tục thực hiện Chỉ thị 09-CT/TW của Ban Bí thư về Luật khiếu nại, tố cáo; quyết định 103/2005-QĐ/UB và 104-2005/QĐ - UB về thành lập Văn phòng tiếp công dân tỉnh Bắc Ninh và quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của Thanh tra tỉnh Bắc Ninh…

Cùng với các văn bản có tính pháp luật được ban hành, công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật về khiếu nại tố cáo cũng được tổ chức tuyên truyền sâu rộng trên các phương tiện thông tin đại chúng với nhiều hình thức đa dạng, phong phú. Hàng năm ngành Thanh tra đã tổ chức nhiều lớp tập huấn cho 100% cán bộ chủ chốt ở xã, phường, thị trấn và cán bộ nghiệp vụ thuộc thanh tra tỉnh, huyện, thị xã, thành phố, thanh tra sở, ngành về Luật khiếu nại, tố cáo và bồi dưỡng nghiệp vụ về công tác tiếp dân, xử lý đơn thư khiếu kiện của công dân.

Công tác thanh tra, kiểm tra, đôn đốc, xử lý vi phạm pháp  luật về khiếu nại, tố cáo cũng được quan tâm. Tỉnh uỷ, UBND tỉnh đã thành lập các đoàn thanh tra liên ngành do lãnh đạo thanh tra tỉnh làm trưởng đoàn, tiến hành rà soát việc thực hiện các quyết định, kết luận xử lý sau thanh tra ở các huyện Từ Sơn, Tiên Du, Thuận Thành, Yên Phong, thành phố Bắc Ninh và một số cơ quan thuộc quản lý của Đảng uỷ khối các cơ quan Dân chính đảng tỉnh. Hầu hết các vụ việc đều được thanh tra, kiểm tra và xử lý kịp thời, phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị địa phương.

Công tác thanh tra, kiểm tra thực hiện luật khiếu nại, tố cáo trên địa bàn đã được cơ quan Thanh tra Chính phủ, Đoàn đại biểu quốc hội, Thường trực HĐND và cơ quan thanh tra tỉnh, Văn phòng tiếp dân, thanh tra các huyện, thị xã tiến hành thường xuyên theo định kỳ hàng tháng, 6 tháng, một năm. Nội dung chủ yếu là việc tiếp công dân định kỳ của lãnh đạo các cấp, các ngành, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo theo thẩm quyền.

Năm 2009 tình hình khiếu nại, tố cáo của công dân diễn biến phức tạp có chiều hướng tăng. Nội dung chủ yếu liên quan đến việc đền bù, thu hồi đất; việc yêu cầu bồi thường thiệt hại hoa màu do khói lò gạch gây ra: việc đề nghị nhà nước cho phép các chủ lò gạch thủ công có vi phạm tiếp tục được đun đốt hết năm 2009…

Nhìn chung các vụ khiếu kiện đúng người, bức xúc tồn đọng kéo dài đã được các cấp, các ngành tập trung giải quyết và có những chuyển biến tích cực, từng bước ổn định tình hình.

 3. Công tác phòng, chống tham nhũng đã được triển khai tích cực

Sau khi học tập, quán triệt các văn bản của Trung ương về phòng chống tham nhũng, Thanh tra tỉnh đã xây dựng kế hoạch, đẩy mạnh việc tuyên truyền phổ biến Luật Phòng chống tham nhũng; phổ biến các văn bản của ngành Thanh tra Trung ương; Triển khai kế hoạch số 26 KH-UBND ngày 30-7-2009 của UBND tỉnh về việc thực hiện chiến lược Quốc gia phòng, chống tham nhũng đến năm 2020. Thanh tra tỉnh đã ban hành các văn bản về phòng, chống tham nhũng như: Công văn số 307/TT-KKTSTN ngày 15/1/2009 hướng dẫn kê khai tài sản thu nhập năm 2008; Văn bản số 52 về việc hướng dẫn đề cương thanh tra trách nhiệm người đứng đầu về thực hiện Luật khiếu nại, tố cáo, Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí...

Thực hiện Nghị định 37 và Quyết định 85/2008/QĐ-TTg ngày 3-7-2008 của Thủ tướng Chính phủ, Thanh tra tỉnh đã phối hợp với Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy, Sở Nội vụ tổ chức, hướng dẫn việc thực hiện kê khai tài sản thu nhập theo Điều 6 Luật Phòng chống tham nhũng. Đến tháng 6-2008 đã có 5.785 người, tại 1.155 cơ quan, tổ chức, đơn vị kê khai tài sản thu nhập.

Thực hiện Thông tư số 475/2009/TTLT-TTCP-BNV ngày 13-3-2009 của liên bộ và Quyết định số 77/2009/QĐ/UBND ngày 01-6-2009 của Chủ tịch UBND tỉnh, Thanh tra tỉnh đã ban hành 4 quyết định thành lập các phòng chuyên môn thuộc Thanh tra tỉnh, trong đó có thành lập phòng thanh tra phòng, chống tham nhũng.

Ngành Thanh tra tỉnh Bắc Ninh đã thực hiện công khai, minh bạch trong công tác cán bộ, thực hiện quy tắc ứng xử, quy tắc đạo đức nghề nghiệp. Thực hiện công khai, minh bạch trong điều động, quy hoạch, bổ nhiệm, nâng lương và giải quyết các chế độ chính sách cho cán bộ, công chức, viên chức, điều động, bổ nhiệm và thi tuyển công chức theo quy định.

Đề án 30 của Chính phủ về “Đơn giản hóa thủ tục hành chính trên các lĩnh vực công việc quản lý nhà nước giai đoạn 2007-2010” đã được các cấp thực hiện nghiêm túc. Thanh tra tỉnh đã thống kê các quy trình thủ tục hành chính để UBND tỉnh ban hành các mẫu đơn, tờ khai được phân chia theo từng lĩnh vực quản lý cụ thể, tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức và công dân tra cứu, áp dụng.

Nhằm phát huy vai trò của ngành trong công tác phòng, chống tham nhũng, toàn ngành Thanh tra đã tiến hành thanh tra hàng trăm cuộc thuộc nhiều lĩnh vực: xây dựng cơ bản, y tế, quản lý sử dụng đất... thu hồi cho công quỹ hàng tỷ đồng. Riêng năm 2009, Thanh tra tỉnh đã thành lập 6 đoàn thanh tra, tiến hành thanh tra trách nhiệm của Chủ tịch UBND các huyện Lương Tài, Gia Bình, Tiên Du và Giám đốc các sở: Y tế; Giáo dục - Đào tạo; Khoa học và Công nghệ về thực hiện Luật phòng, chống tham nhũng, công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và tổ chức thực hiện các kết luận, quyết định xử lý sau thanh tra, thực hiện Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.

Sau hơn 10 năm kể từ ngày tái lập tỉnh (1997 - 2010), mặc dù lực lượng cán bộ Thanh tra cấp tỉnh, huyện và các sở, ngành ít, công việc ngày càng nhiều, nhất là từ năm 2000 đến nay. Song với tinh thần cách mạng tiến công, cán bộ Thanh tra Bắc Ninh đã đoàn kết, khắc phục khó khăn, phấn đấu vươn lên hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ được giao, góp phần xứng đáng cùng Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh phấn đấu xây dựng tỉnh Bắc Ninh cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp, là thành phố trực thuộc Trung ương vào năm 2020. Với những thành tích to lớn ấy, chi bộ đảng Thanh tra tỉnh liên tục từ năm 1997 đến 2010 luôn đạt danh hiệu Chi bộ trong sạch, vững mạnh. Cơ quan Thanh tra tỉnh Bắc Ninh được Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng thưởng Huân chương lao động hạng Nhất.

 

PHẦN PHỤ LỤC

 

 

CÁC ĐỒNG CHÍ TRƯỞNG BAN, CHỦ NHIỆM,

CHÁNH THANH TRA TỈNH

Họ và tên

Chức danh

Giai đoạn c.tác

Đồng chí Vũ Minh

Trưởng ban Kiểm tra, Thanh tra tỉnh

1957

Đồng chí Lê Hoạt

Trưởng ban Kiểm tra, Thanh tra tỉnh

1958 - 1959

Đồng chí Nguyễn Thắng

Trưởng ban kiểm tra - Thanh tra tỉnh

1959 - 6/1961

Đồng chí Nguyễn Lịch

Trưởng ban kiểm tra - Thanh tra tỉnh

6/1961 - 9/1961

Đồng chí Nguyễn Lương Mạnh

Trưởng ban kiểm tra - Thanh tra tỉnh

9/1961 - 1962

Đồng chí Hồ Quang Thành

Trưởng ban Thanh tra tỉnh

1962

Đồng chí Nguyễn Đình Trọng

Trưởng Ban Thanh tra tỉnh

1/1963 - 1965

Đồng chí Ngô Quang Thanh

Chủ nhiệm Uỷ ban Thanh tra tỉnh

1971 - 1974

Đồng chí Thân Văn Tuế

Chủ nhiệm Uỷ ban Thanh tra tỉnh

1974 - 10/1979

Đồng chí Nguyễn Huy Duyên

Chủ nhiệm Uỷ ban Thanh tra tỉnh

10/1979 -1981

Đồng chí Đỗ Mạnh Ân

Chủ nhiệm Uỷ ban Thanh tra tỉnh

1981 - 1986

Đồng chí Phạm Thanh Lộc

Chủ nhiệm Uỷ ban Thanh tra tỉnh

1986 - 1993

Đồng chí Nguyễn Đắc Trụ

Chánh Thanh tra tỉnh

1993 - 12/1996

Đồng chí Phạm Sơn

Chánh Thanh tra tỉnh

1/1997 - 10/1997

Đồng chí Nguyễn Đức Lê

Chánh Thanh tra tỉnh

10/1997 - 11/2001

Đồng chí Nguyễn Trung Tần

Chánh Thanh tra tỉnh

11/2001 đến 2010

Đồng chí Vương Đức Như

Chánh Thanh tra tỉnh

2011 đến 2015

Đồng chí Nguyễn Văn Vinh

Chánh Thanh tra tỉnh

2015 đến 2020

Đồng chí Trần Quang Ứng Chánh Thanh tra tỉnh 2021 đến nay

 

CÁC ĐỒNG CHÍ PHÓ TRƯỞNG BAN, PHÓ CHỦ NHIỆM,

PHÓ CHÁNH THANH TRA TỈNH

Họ và tên

Chức danh

Giai đoạn c.tác

Đồng chí Thân Văn Tuế

P. Chủ nhiệm Uỷ ban Thanh tra tỉnh

1971 - 1979

Đồng chí Nguyễn Thanh Cao

P. Chủ nhiệm Uỷ ban Thanh tra tỉnh

1972 - 1974

Đồng chí Hoàng Tuân

P. Chủ nhiệm Uỷ ban Thanh tra tỉnh

5/1980 - 3/1988

Đồng chí Trần Giàng

P. Chủ nhiệm Uỷ ban Thanh tra tỉnh

1980 - 1987

Đồng chí Đỗ Mạnh Ân

P. Chủ nhiệm Uỷ ban Thanh tra tỉnh

- 1985

Đồng chí Phạm Thanh Lộc

P. Chủ nhiệm Uỷ ban Thanh tra tỉnh

- 1986

Đồng chí Thân Văn Luận

P. Chủ nhiệm Uỷ ban Thanh tra tỉnh

1987 - 10/1993

Đồng chí Trần Xuân Vòng

P. Chánh Thanh tra tỉnh

11/1990 - 1999

Đồng chí Nguyễn Minh Cảnh

P. Chánh Thanh tra tỉnh

1997 - 2020

Đồng chí Nguyễn Phong Châu

P. Chánh Thanh tra tỉnh

1998 - 2003

Đồng chí Nguyễn Xuân Bắc

P. Chánh Thanh tra tỉnh

2003 - 2008

Đồng chí Trần Văn Chăm

P. Chánh Thanh tra tỉnh

2004 - 2010

Đồng chí Nguyễn Trọng Tân

P. Chánh Thanh tra tỉnh

5/2009 - 2010

Đồng chí Lê Đăng Cường

P. Chánh Thanh tra tỉnh

2012 - 2019

Đồng chí Trần Quang Ứng

P. Chánh Thanh tra tỉnh

2016 - 2020

Đồng chí Đặng Đình Mạch P. Chánh Thanh tra tỉnh 2019 - 2020
Đồng chí Nguyễn Nhân Bình P. Chánh Thanh tra tỉnh 2020 đến nay
Đồng chí Trần Vượng P. Chánh Thanh tra tỉnh 2020 đến nay
Đồng chí Hoàng Anh Đức P. Chánh Thanh tra tỉnh 2021 đến nay